Thuật ngữ pháp lý
Đang xem kết quả 161 đến 180 trong tổng số 9.960 thuật ngữ
BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI TRONG TỐ TỤNG LAO ĐỘNG
Biện pháp do tòa án ra quyết định áp dụng trong quá trình giải quyết các vụ án lao động hoặc giải quyết cuộc đình công nhằm bảo vệ lợi ích cấp thiết của các đương sự và bảo đảm việc thi hành án lao động.
Theo Bộ luật lao động năm 2012 và các quy định của pháp luật hiện hành, các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng lao động bao gồm: 1) Tạm đình chỉ việc thi hành quyết định sa thải người lao động; 2) Buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền bồi thường, tiền trợ cấp do tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động; 3) cấm hoặc buộc đương sự, tổ chức, cá nhân khác có liên quan thực hiện những hành vi nhất định.
Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể do Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án hay giải quyết cuộc đình công (nếu áp dụng trước khi giải quyết vụ án hay giải quyết cuộc đình công) hoặc do Hội đồng xét xử vụ án hay Hội đồng giải quyết cuộc đình công (nếu áp dụng tại phiên tòa) quyết định. Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải ghi rõ thời hạn có hiệu lực; thời hạn đó không được quá thời hạn giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Quyết định được thi hành ngay kể cả trường hợp có khiếu nại của đương sự hoặc kiến nghị của Viện kiểm sát, tổ chức công đoàn theo quy định của pháp luật. Biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể do người ra quyết định thay đổi hoặc hủy bỏ.
BIỆN PHÁP KỶ LUẬT LAO ĐỘNG
Hình thức xử lý được pháp luật lao động quy định đối với các hành vi vi phạm kỷ luật lao động của người lao động làm công.
Theo Bộ luật lao động năm 1994, được sửa đổi, bổ sung năm 2002, người vi phạm kỷ luật lao động, tùy theo mức độ phạm lỗi, bị xử lý theo một trong những biện pháp kỷ luật sau: 1) Khiển trách; 2) Kéo dài thời hạn nâng lương không quá sáu tháng hoặc chuyển làm công việc khác có mức lương thấp hơn trong thời hạn tối đa là sáu tháng hoặc cách chức; 3) Sa thải.
Hình thức xử lý kỷ luật sa thải chỉ được áp dụng trong những trường hợp sau: a) Người lao động có hành vi trộm cắp, tham ô, tiết lộ bí mật công nghệ, kinh doanh hoặc có hành vi khác gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của doanh nghiệp; b) Người lao động bị xử lý kỷ luật kéo dài thời hạn nâng lương, chuyển làm công việc khác mà tái phạm trong thời gian chưa xóa kỷ luật hoặc bị xử lý kỷ luật cách chức mà tái phạm; c) Người lao động tự ý bỏ việc năm ngày cộng dồn trong một tháng hoặc 20 ngày cộng dồn trong một năm mà không có lý do chính đáng. Không được áp dụng nhiều hình thức kỷ luật đối với một hành vi vi phạm kỷ luật lao động.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, các biện pháp kỷ luật lao động được quy định tại Điều 125 Bộ luật lao động năm 2012 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 18 tháng 06 năm 2012; hình thức xử lý kỷ luật sa thải được quy định tại Điều 126 Bộ luật lao động năm 2012 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 18 tháng 06 năm 2012.
BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
Biện pháp cưỡng chế về mặt tố tụng áp dụng khi có đủ căn cứ đối với bị can, bị cáo hoặc người chưa bị khởi tố trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, để ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động gây cân trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
Biện pháp ngăn chặn được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự gồm: bắt người, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm. Trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, những biện pháp bắt người, tạm giữ, tạm giam được quy định trong Luật số 103-SL/L.005 ngày 20.5.1957 bảo đảm quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân. Luật này không quy định các biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh và đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm là biện pháp ngăn chặn, còn các trường hợp phạm pháp quả tang và trường hợp khẩn cấp được quy định cụ thể trong sắc luật số 002-SLt ngày 18.6.1957. Trong một thời gian dài, áp dụng các văn bản pháp luật trên đã giúp cho việc đấu tranh chống tội phạm đạt kết quả. Tuy chưa quy định thật đầy đủ các biện pháp ngăn chặn nhưng các văn bản pháp luật trên vẫn là cơ sở đầu tiên để xây dựng và hoàn thiện các biện pháp ngăn chặn trong Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1988.
Theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn gồm: để kịp thời ngăn chặn tội phạm; khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử; khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội; khi cần để bảo đảm thi hành án (Điều 79).
Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn phải do người có thẩm quyền quyết định (trừ trường hợp bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã) và bảo đảm đúng các thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định. Khi tiến hành tố tụng, cơ quan điều tra, viện kiểm sát và tòa án trong phạm vi trách nhiệm của minh phải thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ biện pháp ngăn chặn khi thấy không còn cần thiết hoặc có thể thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác (Xt. Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn).
Thực hiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về biện pháp ngăn chặn bảo đảm cho việc giải quyết vụ án của cơ quan tiến hành tố tụng được thuận lợi; bảo đảm dân chủ, tôn trọng các quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, các biện pháp ngăn chặn được quy định tại Điều 109 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015.
BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM
Hệ thống các biện pháp, cách thức do các cơ quan chức năng có thẩm quyền, các tổ chức xã hội và công dân thực hiện nhằm hạn chế, ngăn chặn, loại trừ nguyên nhân, điều kiện phạm tội.
Trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, biện pháp phòng ngừa được thực hiện bằng phòng ngừa xã hội và phòng ngừa nghiệp vụ.
Biện pháp phòng ngừa xã hội gồm các biện pháp quần chúng, biện pháp giáo dục và có thể cả biện pháp hành chính: 1) Biện pháp quần chúng là một trong những biện pháp cơ bản nhất của các cơ quan quản lý nhà nước nói chung và của lực lượng công an nhân dân nói riêng áp dụng trong đấu tranh phòng chống tội phạm, nhằm sử dụng sức mạnh to lớn của nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ an ninh trật tự. Biện pháp quần chúng được thực hiện thông qua việc tuyên truyền, giáo dục, vận động công khai và bí mật, vận động rộng rãi và cá biệt để phát huy tính tự giác của quần chúng thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Nội dung của biện pháp quần chúng gồm điều tra nghiên cứu tình hình, tuyên truyền giáo dục, tổ chức hướng dẫn quần chúng tham gia công khai và bí mật vào các hoạt động bảo vệ an ninh, trật tự; 2) Biện pháp giáo dục là biện pháp được thực hiện nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, ý thức của một người hoặc một số người nào đó nhằm làm cho họ có những phẩm chất và năng lực theo yêu cầu đã định. Trong lĩnh vực đấu tranh phòng, chống tội phạm, Luật hình sự Việt Nam và Luật tố tụng hình sự Việt Nam luôn coi trọng các biện pháp giáo dục đối với người có hành vi vi phạm pháp luật; 3) Biện pháp hành chính là một trong những biện pháp cơ bản nhất của các cơ quan quản lý nhà nước nói chung và lực lượng công an nhân dân trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Biện pháp này được thực hiện bằng cách sử dụng nhũng quy định của pháp luật về trật tự xã hội để quản lý xã hội nhằm phòng ngừa, phát hiện và ngăn chặn các hành vi xâm hại an ninh, trật tự, bảo đảm cuộc sống yên vui, hạnh phúc của nhân dân.
Biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ là hệ thống biện pháp công tác riêng của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nói chung trong một lĩnh vực chuyên môn cụ thể. Đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật, trong đó có lực lượng công an nhân dân, biện pháp nghiệp vụ được sử dụng trong quá trình đấu tranh phòng ngừa và chống các âm mưu và hành động của các thế lực thù địch, các phần tử chống đối cách mạng và các loại tội phạm khác, bảo vệ an ninh, trật tự như biện pháp trinh sát, biện pháp vũ trang...
BIỆN PHÁP THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Biện pháp áp dụng để thi hành bản án, quyết định dân sự.
Việc thi hành bản án, quyết định dân sự được tiến hành bằng biện pháp giáo dục, thuyết phục để người phải thi hành án tự nguyện thi hành án và cưỡng chế thi hành án.
Khi bản án, quyết định dân sự được thi hành thì người phải thi hành án có nghĩa vụ thi hành. Cơ quan thi hành án tiến hành giáo dục, thuyết phục và định cho người phải thi hành án một thời hạn không quá 30 ngày, kể từ ngày có quyết định thi hành án để họ tự nguyện thi hành án. Sau khi hết thời hạn tự nguyện thi hành án, nếu người phải thi hành án không tự nguyện thi hành thì cơ quan thi hành án áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án (Điều 6, Điều 7 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004).
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, biện pháp cưỡng chế thi hành án được quy định tại Điều 46 Luật thi hành án dân sự năm 2008 do Quốc hội khóa 12 ban hành ngày 14 tháng 11 năm 2008.
BIỆN PHÁP TƯ PHÁP
Biện pháp cưỡng chế nhà nước được quy định trong luật hình sự và do tòa án áp dụng, bổ sung cho hệ thống hình phạt với mục đích thay thế hoặc hỗ trợ cho hình phạt.
Cùng với hệ thống hình phạt, biện pháp tư pháp là hệ thống biện pháp cưỡng chế nhà nước thứ hai được quy định trong luật hình sự nhằm thay thế cho hình phạt trong những trường hợp đặc biệt nhất định hoặc nhằm hỗ trợ làm tăng hiệu quả của hình phạt. Trong luật hình sự Việt Nam, hệ thống các biện pháp tư pháp được quy định kể từ khi có Bộ luật hình sự năm 1985. Hệ thống này về cơ bản được giữ nguyên trong Bộ luật hình sự năm 1999 (trừ trường hợp đổi tên của biện pháp tư pháp “buộc phải chịu thử thách" thành"giáo dục tại xã, phường, thị trấn”).
Theo Bộ luật hình sự năm 1999, biện pháp tư pháp gồm: tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm; trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi; bắt buộc chữa bệnh; giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng.
Trong các biện pháp trên, biện pháp bắt buộc chữa bệnh; biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng là những biện pháp thay thế hình phạt. Các biện pháp còn lại gồm tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm; trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi là các biện pháp có tính chất hỗ trợ cho hình phạt (Xt. Giáo dục tại xã, phường, thị trấn; Đưa vào trường giáo dưỡng).
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, biện pháp tư pháp được quy định tại Điều 46 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015.
BIỆT PHÁI CÔNG CHỨC
Cử công chức thuộc quyền quản lý cán bộ, công chức của cơ quan, tổ chức đến làm việc có thời hạn ơ cơ quan, tổ chức khác theo yêu cầu nhiệm vụ công vụ.
Trong thời gian công tác biệt phái, công chức vân thuộc biên chế của cơ quan nơi người đó làm việc trước khi được cử đi công tác biệt phái và vẫn được hưởng mọi quyền lợi về nâng lương, đề bạt, thăng cấp, hưu trí của ngành nơi cử đi biệt phái. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ biệt phái, công chức trỏ lại cơ quan cũ công tác. Thời gian công tác biệt phái được tính là thời gian công tác liên tục. Thời hạn cử biệt phái mỗi lần không quá 3 năm.
Việc cử biệt phái công chức được thực hiện trong các trường hợp: 1) Do có nhiệm vụ đột xuất, cấp bách mà chưa thể thực hiện việc điều động công chức; 2) Do có những công việc chỉ cần giải quyết trong một thời gian nhất định.
Công chức được cử biệt phái chịu sự phân công công tác của cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi được cử đến. Cơ quan, tổ chức cử biệt phái công chức có trách nhiệm trả lương và bảo đảm các quyền lợi khác của công chức biệt phái. Việc đánh giá công chức biệt phái do cơ quan sử dụng công chức thực hiện. Văn bản đánh giá công chức biệt phái được gửi về cơ quan cử biệt phái để lưu vào hồ sơ cá nhân. Công chức được cử biệt phái đến vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo được hưởng chính sách ưu đãi theo quy định chung của nhà nước.
BIỂU THUẾ
Bảng tập hợp các loại thuế suất do Nhà nước quy định để tính thuế cho các đối tượng chịu thuế (hàng hóa, dịch vụ, thu nhập, tài sản...).
Thuế suất được quy định trong biểu thuế dưới hai hình thức: thuế suất tỷ lệ và thuế suất cố định. Thuế suất tỷ lệ là hình thức thuế suất mà mức thuế được xác định theo tỷ lệ phần trăm giá trị hoặc theo số tuyệt đối trên đơn vị đo lường hiện vật của đối tượng chịu thuế; ví dụ: Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 28% thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp. Thuế suất cố định là hình thức thuế suất mà mức thuế phải thu được xác định bằng số tuyệt đối theo các bậc của đối tượng tính thuế; ví dụ: thuế sử dụng đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm trước đây với đất hạng một là 550kg thóc/ha/năm.
Biểu thuế gồm biểu thuế cố định, biểu thuế với thuế suất tỉ lệ đều và biểu thuế luỹ tiến từng phần hoặc toàn bộ, biểu thuế luỹ tiến thoái.
Biểu thuế thông thường gồm các bậc thuế suất khác nhau nhưng thuế suất áp dụng không thay đổi theo sự tăng lên hay giảm xuống của đối tượng tính thuế.
Biểu thuế lũy tiến bao gồm các bậc thuế suất khác nhau nhưng thuế suất áp dụng tăng lên theo sự tăng lên của đối tượng tính thuế. Biểu thuế lũy tiến có hai loại: biểu thuế lũy tiến toàn phần và biểu thuế lũy tiến từng phần. Biểu thuế lũy tiến toàn phần bao gồm các thuế suất nhưng thuế suất áp dụng thay đổi theo mức cao hơn đối với toàn bộ đối tượng tính thuế nếu đối tượng tính thuế thuộc bậc quy định. Biểu thuế lũy tiến từng phần bao gồm các thuế suất nhưng thuế suất áp dụng thay đổi theo mức cao hơn đối với từng phần của đối tượng tính thuế nếu đối tượng tính thuế thuộc bậc quy định.
BỔ NHIỆM CÔNG CHỨC
Việc người có thẩm quyền chỉ định một người để giao cho một chức vụ sau khi đã xét người đó có đủ điều kiện do pháp luật quy định theo đúng trình tự, thủ tục cần thiết.
Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001), việc bổ nhiệm một số chức danh trong bộ máy nhà nước phải được sự phê chuẩn của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Điều 7, Điều 84 Hiến pháp 1992 quy định: Quốc hội phê chuẩn để nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm Phó thủ tướng, bộ trưởng và các thành viên của Chính phủ.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, bổ nhiệm công chức được quy định tại Điều 88 Hiến pháp năm 2013 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 28 tháng 11 năm 2013.
BỔ TRỢ TƯ PHÁP
Trợ giúp, tạo điều kiện cho hoạt động tư pháp tiến hành được thuận lợi, nhanh chóng, chính xác bằng cách cung cấp hồ sơ, chứng cứ, phản biện cho các khâu, đoạn trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, đồng thời giúp cho cá nhân công dân, tổ chức bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Bổ trợ tư pháp liên quan chặt chẽ, hướng vào hoạt động tư pháp, có tính chất tư pháp nhưng không lẫn lộn với hoạt động tư pháp với tư cách là hoạt động thực thi quyền lực nhà nước.
Các hoạt động bổ trợ tư pháp gồm hoạt động luật sư, tư vấn pháp luật, giám định, công chứng, lý lịch tư pháp... Trong đó, luật sư, giám định là hoạt động mang tính chất điển hình cho bổ trợ tư pháp. Các hoạt động khác như công chứng, tư vấn pháp luật, lý lịch tư pháp... có ý nghĩa là hoạt động mang tính chất hỗ trợ tư pháp, khi các hoạt động đó có liên quan trực tiếp đến hoạt động tố tụng mà những hoạt động này, trong nhiều trường hợp, giúp cho các hoạt động quản lý khác.
Cơ quan tiến hành hoạt động bổ trợ tư pháp có thể do Nhà nước thành lập, cũng có thể do cá nhân công dân, tổ chức thành lập và thường không mang tính quyền lực nhà nước, không mang tính bắt buộc và chỉ có ý nghĩa phụ giúp, hỗ trợ cho hoạt động tư pháp.
Hoạt động bổ trợ tư pháp một mặt góp phần nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước, mặt khác góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế và công dân.
BỘ
Cơ quan thuộc thành phần trong cơ cấu của Chính phủ, cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với ngành hoặc lĩnh vực công tác trong phạm vi cả nước; thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn của nhà nước tại doanh nghiệp có vốn nhà nước theo quy định của pháp luật.
Bộ do Quốc hội quyết định thành lập hoặc bãi bỏ theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của bộ được quy định bằng nghị định của Chính phủ. Bộ được tổ chức theo ngành, lĩnh vực hoặc đa ngành, đa lĩnh vực. Bộ bao gồm nhiều loại: 1) Bộ quản lý ngành là cơ quan quản lý một ngành hoặc một số ngành kinh tế - kỹ thuật hoặc sự nghiệp có liên quan chặt chẽ với nhau (ví dụ: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Giáo dục và Đào tạo...); 2) Bộ quản lý lĩnh vực công tác là cơ quan quản lý một lĩnh vực công tác quan trọng, thường gắn với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự xã hội, củng cố quốc phòng, bảo vệ pháp luật (ví dụ: Bộ Quốc phòng, Bộ Công an..); 3) Bộ quản lý chuyên môn tổng hợp (quản lý chức năng) là cơ quan có nhiệm vụ quản lý thống nhất một hoặc một số lĩnh vực chuyên môn có liên quan tới tất cả các ngành, các lĩnh vực (ví dụ: Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư...).
BỘ CÔNG ƯỚC GIƠNEVƠ NĂM 1949 VỀ BẢO HỘ NẠN NHÂN CHIẾN TRANH
Các công ước được ký kết ngày 12.8.1949 tại Geneva (Thụy Sĩ) nhằm mục đích bảo vệ, giúp đỡ các nạn nhân của các cuộc xung đột vũ trang (chủ yếu là các cuộc xung đột vũ trang mang tính quốc tế).
Có bốn công ước cùng được ký kết gồm: 1) Công ước về cải thiện tình trạng của thương binh, bệnh binh thuộc lực lượng vũ trang trên chiến trường; 2) Công ước về cải thiện tình trạng của thương binh, bệnh binh và bị đắm tàu thuộc lực lượng vũ trang trên biển; 3) Công ước về đối xử với tù binh; 4) Công ước về bảo hộ thường dân trong chiến tranh. Việt Nam đã gia nhập các công ước trên từ năm 1957.
Năm 1977, cộng đồng quốc tế đã thông qua 2 văn bản bổ sung cho các công ước Giơnevơ về bảo hộ nạn nhân chiến tranh đó là Nghị định thư I về bảo hộ nạn nhân của các cuộc xung đột vũ trang mang tính chất quốc tế và Nghị định thư II về bảo hộ nạn nhân của các cuộc xung đột vũ trang không mang tính chất quốc tế.
BỘ CÔNG ƯỚC LUẬT BIỂN NĂM 1958
Các công ước được ký kết tại Hội nghị lần thứ nhất của Liên hợp quốc về luật biển ở Geneva (Thụy Sĩ) năm 1958.
Hội nghị này đã cho ra đời bốn công ước sau:
Công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải (có hiệu lực ngày 10.9.1964, có 48 quốc gia thành viên);
Công ước về biển cả (có hiệu lực ngày 30.9.1966, có 36 quốc gia thành viên); 3) Công ước về đánh cá và bảo tồn các tài nguyên sinh vật của biển cả (có hiệu lực ngày 20.3.1966, có 36 quốc gia thành viên); 4) Công ước về thềm lục địa (có hiệu lục ngày 10.6.1964 có 54 quốc gia thành viên).
Bên cạnh một số điểm tiến bộ, nhìn chung các công ước luật biển năm 1958 còn có những mặt hạn chế như chưa có sự quy định thống nhất, rõ ràng về chiều rộng lãnh hải, không có quy định cụ thể về chế độ pháp lý của vùng nước quần đảo, các cơ sở để xác định chiều rộng của thềm lục địa còn phiến diện... Hầu hết những mặt hạn chế của bộ Công ước luật biển 1958 đã được khắc phục trong Công ước luật biển 1982.
BỘ LUẬT
Một hình thức văn bản quy phạm pháp luật có mức độ hệ thống hóa cao nhất, bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội trên một hoặc nhiều lĩnh vực khác nhau.
Các bộ luật đã được xây dựng trong thời kỳ cổ đại ở các nhà nước chiếm hữu nô lệ như Bộ luật Hammurabi của nhà nước chủ nô Babylon thế kỷ XVIII trước Công nguyên, Bộ luật Draco của nhà nước Hy Lạp cổ đại năm 621 trước Công nguyên, Bộ luật Manu của Ấn Độ khoảng thế kỷ thứ II trước Công nguyên đến thế kỷ thứ I, Bộ luật XII Bảng của nhà nước La Mã cổ đại thế kỷ V trước Công nguyên. Thời kì trung đại, nhà nước phong kiến đã có những bộ luật nổi tiếng như Bộ luật Lombardie thế kỷ XII được xây dựng nên bởi các tòa án thành phố Milan và các thành phố phía Bắc Italia, Bộ luật tục Normandie năm 1275 của Pháp, Bộ luật Saxon thế kỷ XIII của Đức, Bộ hội điển luật lệ Fleta năm 1290 của Anh, Bộ hội điển luật lệ năm 1649 của Nga, Các bộ luật của nhà nước phong kiến Trung Quốc gồm Bộ luật nhà Tần thế kỷ III trước Công nguyên, Bộ Cửu chương luật của nhà Hán (khoảng từ năm 206 trước Công nguyên đến năm 220), Bộ luật nhà Đường thế kỷ VII, Bộ Tống hình luật thế kỷ X - XI, Bộ luật Đại Minh (nửa cuối thế kỷ XIV đến nửa đầu thế kỷ XVII), Bộ Đại Thanh luật (khoảng nửa cuối thế kỷ XVII) và Bộ Đại Thanh luật lệ (năm 1740) của triều đình Mãn Thanh. Nhà nước phong kiến Việt Nam cũng đã xây dựng được khá nhiều bộ luật như Bộ hình thư thời nhà Lý, Bộ quốc triều hình luật thời kỳ nhà Trần, Bộ luật Hồng Đức (Quốc triều hình luật), Bộ quốc triều thư khế thể thức, Bộ quốc triều khám tụng điều lệ, Bộ quốc triều chiếu lệnh thiện chính thời kỳ nhà Lê, Bộ Hoàng Việt luật lệ (Bộ luật Gia Long) thời kỳ nhà Nguyễn. Các bộ luật thời kỳ nhà nước chủ nô và nhà nước phong kiến (thời kì cổ đại và trung đại) được biên soạn dưới sự chỉ đạo của hoàng đế và do hoàng đế ban hành thông thường là những bộ tổng luật điều chỉnh nhiều lĩnh vực quan hệ xã hội khác nhau bao gồm cả hình sự lẫn dân sự, hành chính, đất đai, lao động, thương mại, hôn nhân và gia đình...
Các văn bản quy phạm pháp luật được viện dẫn ở trên được ban hành trong các nhà nước chiếm hữu nô lệ, phong kiến do có tính hệ thống hóa cao (ngày nay gọi là pháp điển hóa cao) nên thường được các nhà sử học, luật học gọi là bộ luật, nhưng bản thân các văn bản đó chưa có tên gọi là bộ luật. Các văn bản của nhà nước phong kiến Việt Nam - Hình thư đời Lý, đời Trần, Quốc triều hình luật đời Lê, Hoàng Việt luật lệ đời Nguyễn đều chưa có tên gọi bộ luật. Ở Việt Nam, ngay các bộ luật được ban hành dưới thời thuộc địa, bảo hộ Pháp như Dân luật Nam Kỳ, Hoàng Việt Trung Kỳ hộ luật... cũng chưa có tên gọi bộ luật. Nói cho chặt chẽ, các bộ luật chỉ có thể được ban hành trong thời kỳ cận đại và hiện đại do cơ quan lập pháp là Nghị viện làm ra và chỉ điều chỉnh một loại quan hệ xã hội nhất định như hình sự, dân sự, thương mại, lao động, đất đai, bầu cử, thuế, hải quan... như Bộ luật dân sự Napoleon 1804, Bộ luật thương mại năm 1807, Bộ luật hình sự 1810 của Pháp...
Hiện nay, nhiều nước trên thế giới thường có các bộ luật sau: bộ luật hình sự, bộ luật dân sự, bộ luật tố tụng hình sự, bộ luật tố tụng dân sự, bộ luật thương mại, bộ luật đất đai, bộ luật lao động, bộ luật bầu cử, bộ luật thuế, bộ luật hải quan, bộ luật hàng không, bộ luật bảo vệ người tiêu dùng... Bộ luật thông thường được cấu thành bởi các chương, điều, khoản và giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Bộ luật là kết quả của hoạt động pháp điển hóa pháp luật. Việt Nam đã có khá nhiều bộ luật như Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự, Bộ luật hàng hải, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật lao động.
BỘ LUẬT DÂN SỰ
Văn bản hệ thống hóa pháp luật dân sự được Quốc hội ban hành theo trình tự và thủ tục do pháp luật quy định, trong đó các quy phạm pháp luật dân sự được sắp xếp theo hệ thống nhằm điều chỉnh các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân giữa các chủ thể của luật dân sự.
Bộ luật dân sự đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 28.10.1995, có hiệu lực từ ngày 1.7.1996. Bộ luật bao gồm lời nói đầu và 7 phần, 838 điều luật với những nội dung chính sau: Phần thứ nhất - Những quy định chung; Phần thứ hai - Tài sản và quyền sở hữu; Phần thứ ba - Nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự; Phần thứ tư - Thừa kế; Phần thứ năm - Những quy định về chuyển quyền sử dụng đất; Phần thứ sáu - sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ; Phần thứ bảy - Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.
Sau gần 10 năm thực hiện, Bộ luật dân sự năm 1995 đã bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội đã đặt ra yêu cầu, sự đòi hỏi mới để điều chỉnh của pháp luật đối với các quan hệ pháp luật dân sự. Chính vì vậy, Quốc hội khóa XI, tại kỳ họp thứ bảy đã thông qua Bộ luật dân sự mới vào ngày 14.6.2005. So với Bộ luật dân sự năm 1995, Bộ luật dân sự năm 2005 tiếp tục được chia thành bảy phần với tên gọi như Bộ luật dân sự năm 1995, đã có sự thay đổi cơ cấu các điều luật, chỉ còn 777 điều, bên cạnh những điểm mới nhằm đáp ứng những yêu cầu của thực tiễn đặt ra.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, Bộ luật dân sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 24/11/2015 đã có sự thay đổi cơ cấu các điều luật, chỉ còn 689 điều, bên cạnh những điểm mới nhằm đáp ứng những yêu cầu của thực tiễn đặt ra.
Bộ luật dân sự được xem là nguồn chủ yếu của luật dân sự, là phương tiện pháp lý quan trọng nhằm thúc đẩy giao lưu dân sự phát triển, bảo đảm sự bình đẳng và an toàn pháp lý cho các giao dịch dân sự, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong giao lưu dân sự.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, Bộ luật dân sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 24/11/2015 đã có sự thay đổi cơ cấu các điều luật, chỉ còn 689 điều, bên cạnh những điểm mới nhằm đáp ứng những yêu cầu của thực tiễn đặt ra.
BỘ LUẬT DÂN SỰ BẮC KỲ
Bộ luật dân sự áp dụng cho xứ Bắc Kỳ Việt Nam dưới thời Pháp thuộc.
Bộ luật có tên gọi chính thức là “Bộ dân luật thi hành tại các tòa Nam án Bắc Kỳ", được ban hành ngày 30. 3.1931 và có hiệu lực thi hành tại Bắc Kỳ từ ngày 01.7.1931.
Bộ luật dân sự Bắc Kỳ được ban hành trong bối cảnh cả hai xứ Bắc Kỳ và Trung Kỳ của Việt Nam đều được đặt trong chế độ bảo hộ của Pháp, trong khi đó tại xứ Nam Kỳ, Bộ dân luật giản yếu đã được ban hành từ năm 1884 để áp dụng riêng cho lãnh thổ Nam Kỳ. Do không thể áp dụng Bộ dân luật giản yếu (tức Bộ dân luật Nam Kỳ) vào lãnh thổ Bắc Kỳ nên người ta đã nghĩ đến việc cẩn phải ban hành riêng một bộ dân luật để áp dụng tại lãnh thổ Bắc Kỳ. Ý định ban hành bộ dân luật Bắc Kỳ đã được khởi sự từ năm 1917 và hoàn tất vào đầu năm 1931, với sự cộng tác của các luật gia người Việt và người Pháp.
Bộ luật dân sự Bắc Kỳ có 1455 điều, được thiết kế gồm một thiên sơ bộ và bốn quyển với nội dung cơ bản như sau: thiên sơ bộ nói về các nguyên tắc cơ bản của dân luật như nguyên tắc công bố luật, nguyên tắc bất hồi tố, nguyên tắc bình đẳng, tự do cá nhân và tôn trọng quyền tư hữu, nguyên tắc thừa nhận ưu thế của pháp luật so với các thỏa thuận hay cam kết của tư nhân với nhau, cũng như ưu thế của pháp luật đối với các thẩm phán trong quá trình xét xử...; quyển 1 quy định về quốc tịch, hộ tịch, hôn nhân gia đình và thừa kế; quyển 2 quy định các vấn đề về tài sản như phân loại tài sản (động sản và bất động sản), quyền sở hữu, hình thức sở hữu, quyền của chủ sở hữu, dịch chuyển quyền sở hữu...; quyển 3 nói về nghĩa vụ và khế ước; quyền 4 quy định về cách thức viện dẫn các chứng cứ trong các vụ kiện dân sự.
Về nguyên tắc, Bộ luật dân sự Bắc Kỳ chỉ áp dụng cho những người thuộc quyền xét xử của các tòa án ở Bắc Kỳ. Tuy nhiên, trong Bộ luật này cũng dữ liệu hai trường hợp biệt lệ về phạm vi áp dụng: thứ nhất, Bộ luật này chấp nhận và cho phép tiếp tục thi hành những phong tục, tập quán riêng của các dân tộc ít người ở Bắc Bộ như Mường, Mán, Mèo, Thái...; thứ hai, các quy định về thân trạng và năng lực pháp luật của cá nhân trong bộ luật này có thể áp dụng cho những người dân Bắc Kỳ cư trú ngoài lãnh thổ Bắc Kỳ.
Giống như Bộ dân luật giản yếu áp dụng tại Nam Kỳ, Bộ luật dân sự Bắc Kỳ cũng được xây dựng dựa trên nền tảng của Bộ luật dân sự Pháp ban hành năm 1804. Tuy nhiên, so với Bộ dân luật giản yếu được ban hành từ năm 1884 tại Nam Kỳ thì Bộ luật dân sự Bắc Kỳ có nhiều điểm hoàn thiện hơn, bởi lẽ bộ luật này không những quy định khá toàn diện về tất cả các vấn đề của dân luật (bao gồm các quy định về người; quyền sở hữu tài sản; thừa kế; nghĩa vụ và khế ước...), mà ở mức độ nhất định đã có sự kế thừa các phong tục, tập quán truyền thống của các dân tộc Việt Nam lúc bấy giờ.
Tuy nhiên, Bộ luật dân sự Bắc Kỳ cũng có nhiều điểm hạn chế xuất phát từ bối cảnh đất nước đang đặt dưới ách đô hộ của thực dân, phong kiến lúc bấy giờ. Chẳng hạn, Bộ luật không thừa nhận nguyên tắc nam nữ bình đẳng, thay vào đó, Bộ luật bảo hộ chế độ đa thê, chế độ gia trưởng và độc đoán trong gia đình, phân biệt đối xử con trong giá thú với con ngoài giá thú...
BỘ LUẬT DÂN SỰ NAM KỲ
Bộ dân luật giản yếu được ban hành ngày 26.3.1884 áp dụng cho xứ Nam Kỳ.
Đây là bộ luật dân sự đầu tiên ở nước ta được xây dựng theo tinh thần của nền pháp chế phương Tây mà vai trò ảnh hưởng trực tiếp là các tư tưởng pháp lý được thể hiện trong Bộ dân luật của Pháp ban hành năm 1804.
Bộ luật này được xây dựng trong bối cảnh Nam Kỳ Việt Nam lúc đó đã trở thành thuộc địa của Pháp và quyền lập pháp trên toàn cõi Nam Kỳ đều thuộc về người Pháp. Để thuận tiện cho việc áp dụng tinh thần Bộ dân luật Pháp tại Việt Nam, người ta đã nghĩ đến việc soạn thảo một bộ dân luật riêng áp dụng tại Nam Kỳ nhưng phải được xây dựng theo bố cục và tinh thần của Bộ dân luật Pháp. Trước khi Bộ luật dân sự Nam Kỳ được chính thức ban hành, ngày 3.10.1883, Chính phủ Pháp đã ban hành hai sắc lệnh nhằm áp dụng tại Nam Kỳ, trong đó sắc lệnh thứ nhất quy định về vấn đề quốc tịch và trú quán (giống như thiên sơ bộ và thiên I, thiên III trong Quyền 1 Bộ dân luật Pháp); còn sắc lệnh thứ hai quy định về vấn đề hộ tịch (giống như thiên II trong Quyền 1 Bộ dân luật Pháp). Các vấn đề còn lại trong Bộ dân luật Pháp (từ Thiên thứ IV đến Thiên thứ XI) được ban hành sau đó không lâu, trong Bộ dân luật giản yếu ngày 26.3.1884 để áp dụng tại xứ Nam Kỳ. Chính vì trong Bộ dân luật này chỉ quy định từ Thiên thứ IV đến Thiên thứ XI nên được gọi là “Bộ dân luật giản yếu”.
Về nội dung, Bộ dân luật giản yếu áp dụng tại Nam Kỳ bao gồm các thiên như sau: Thiên IV nói về sự thất tung (mất tích); Thiên V nói về giá thú; Thiên VI quy định về việc ly hôn; Thiên VII quy định về chế độ phụ hệ và con chính thức; Thiên VIII quy định về vấn đề con nuôi; Thiên IX quy định về vấn đề thân quyền; Thiên X quy định về vấn đề vị thành niên, giám hộ, thoát quyền; Thiên XI quy định về vấn đề thành niên.
So với Bộ dân luật Bắc Kỳ và Bộ dân luật Trung Kỳ thì Bộ dân luật giản yếu áp dụng tại xứ Nam Kỳ chỉ quy định những vấn đề về nhân pháp (tức nói về người), chứ không quy định các vấn đề khác vốn được xem là một trong những nội dung cốt yếu của dân luật như vấn đề tài sản; vấn đề nghĩa vụ dân sự và khế ước. Thậm chí, ngay cả chế độ tài sản của vợ chồng hay vấn đề thừa kế, vốn rất gần gũi với các quy định về “người” cũng không được quy định trong Bộ luật này.
BỘ LUẬT DÂN SỰ TRUNG KỲ
Bộ luật dân sự áp dụng cho xứ Trung Kỳ, với tên gọi cũ là Hoàng Việt Trung Kỳ hộ luật, gồm 5 quyển được ban hành bởi nhiều đạo dụ trong những thời gian khác nhau, từ năm 1936 đến năm 1939.
Quyển thứ nhất được ban hành bởi Dụ số 51 ngày 13.7.1936 (tức ngày ngày 25.5 năm Bảo Đại thứ 1) và có hiệu lực thi hành tại Trung Kỳ từ ngày 19.11 năm Bảo Đại thứ 1. Quyển thứ hai được ban hành bởi Dụ số 95 ngày 8.1.1938. Quyển thứ ba, thứ tư và thứ năm được ban hành bởi Dụ số 59 ngày 28.9.1939.
Bộ luật dân sự Trung Kỳ được soạn thảo và ban hành trong bối cảnh tại Bắc Kỳ đã có Bộ dân luật Bắc Kỳ (1931) và ở Nam Kỳ đã có Bộ dân luật giản yếu (năm 1884). Trong hoàn cảnh như vậy, việc ban hành bộ luật này tại Trung Kỳ là giải pháp giúp cho các thẩm phán áp dụng pháp luật được thuận tiện hơn trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự mà không cần phải viện dẫn các quy định của Bộ dân luật Bắc Kỳ hay Bộ dân luật Nam Kỳ, vốn dĩ chỉ được ban hành để áp dụng cho hai xứ đó.
Bộ luật dân sự Trung Kỳ cũng có những điểm hạn chế xuất phát từ bối cảnh đất nước đang đặt dưới ách đô hộ của thực dân, phong kiến lúc bấy giờ. Chẳng hạn, Bộ luật không thừa nhận nguyên tắc nam nữ bình đẳng, thay vào đó, Bộ luật bảo hộ chế độ đa thê, chế độ gia trưởng và độc đoán trong gia đình, phân biệt đối xử con trong giá thú, con ngoài giá thú...
BỘ LUẬT GIA LONG
Văn bản pháp luật quan trọng nhất và cũng là di tích pháp lý lớn nhất của Nhà nước phong kiến Việt Nam thế kỷ XIX.
Bộ luật Gia Long, tên gọi chính thức là "Hoàng Việt luật lệ”, ngoài ra, còn được gọi với tên khác như “Hoàng triều luật lệ", “Quốc triều điều luật”. Bộ luật Gia Long do Tổng tài Nguyễn Văn Thành chủ trì việc biên soạn từ năm 1811 theo chỉ dụ của vua Gia Long và được ban hành năm 1815.
Bộ luật Gia Long gồm 22 quyển với 398 điều luật, trong đó, các điều khoản của Bộ luật được chia thành sáu loại tương đương với công việc của 6 Bộ phụ trách: Tập I - Những chỉ dẫn tổng quát; Tập II và III (từ Điều 1 đến Điều 45), gồm những quy định ban đầu; Tập IV và tập V - Bộ Lại, gồm các điều từ Điều 46 đến Điều 72; các Tập VI, VII, VIII - Bộ Hộ, gồm các điều từ Điều 73 đến Điều 138; Tập IX - Bộ Lễ, từ điều 139 đến Điều 164; Tập X và XI - Bộ Binh, từ Điều 165 đến Điều 222; Tập XII đến Tập XX - Bộ Hình, từ Điều 223 đến Điều 388; Tập XXI - Bộ Công, từ Điều 389 đến Điều 398; Tập XXII - Phụ lục, là quyền cuối cùng có tiêu đề “Sách dẫn điều luật” (viện dẫn điều luật bằng cách so sánh, khi không có điều luật tương ứng thì căn cứ vào điều luật khác tương tự mà nghị xử).
GÓC NHÌN PHÁP LÝ
INFOGRAPHIC & VIDEO MỚI
VĂN BẢN MỚI BAN HÀNH
- Số hiệu: 236/QĐ-TTg - Ngày ban hành: 19/03/2024
- Số hiệu: 13/2024/TT-BQP - Ngày ban hành: 18/03/2024
- Số hiệu: 608/KH-UBND - Ngày ban hành: 18/03/2024
- Số hiệu: 232/QĐ-TTg - Ngày ban hành: 18/03/2024
- Số hiệu: 184/QĐ-BNV - Ngày ban hành: 18/03/2024