Thuật ngữ pháp lý
Đang xem kết quả 101 đến 120 trong tổng số 9.960 thuật ngữ
BẠO LOẠN
(Hành vi) sử dụng bạo lực có tổ chức nhằm chống chính quyền nhân dân.
Bạo loạn là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm an ninh quốc gia cũng như an toàn, trật tự xã hội nói chung. Do vậy, luật hình sự Việt Nam luôn luôn coi hành vi này là tội phạm. Trước khi có Bộ luật hình sự đầu tiên (Bộ luật hình sự năm 1985), tội phạm này được quy định trong Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng năm 1967. Trong Bộ luật hình sự năm 1985 và Bộ luật hình sự năm 1999 và Bộ luật hình sự 2015, tội bạo loạn đều được quy định là tội phạm thuộc Chương “Các tội xâm phạm an ninh quốc gia”.
Hành vi sử dụng bạo lực có tổ chức ở tội này có thể là hành vi có vũ trang hoặc không, như bắn phá, gây nổ, đập phá công sở, cướp tài sản...
Những hành vi cụ thể của tội này đều là những hành vi gây rối an ninh chính trị cũng như trật tự, an toàn xã hội. Mục đích của người phạm tội khi thực hiện những hành vi này là nhằm chống lại chính quyền nhân dân, làm cho chính quyền suy yếu...
Bạo loạn là một trong những tội nguy hiểm nhất xâm phạm an ninh quốc gia và do vậy hình phạt được quy định rất nghiêm khắc, có thể tới chung thân hoặc tử hình.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, tội bạo loạn được quy định tại khoản 20 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 do Quốc hội khóa 14 ban hành ngày 20 tháng 6 năm 2017.
BẰNG CHỨNG
Sự việc, sự kiện, hiện tượng, tài liệu có thật được cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan thu thập để phục vụ cho việc chứng minh một sự việc cụ thể nhằm bảo đảm tính khách quan của sự việc đó.
Trong đấu tranh phòng chống tội phạm, bằng chứng cũng có thể được hiểu là chứng cứ (nhưng với nghĩa hẹp hơn chứng cứ). Đó là những sự kiện, tài liệu có thật, được thu thập theo trình tự do Bộ luật hình sự quy định mà cơ quan điều tra, viện kiểm sát và tòa án dùng để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như các tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án. Bằng chứng được xác định bằng vật chứng, lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và các tài liệu khác.
Bằng chứng có thuộc tính riêng sau: 1) Tính khách quan, thể hiện ở chỗ những gì dùng làm căn cứ để chứng minh cho sự nhận định, kết luận về một vụ án phải là những cái có thật, tồn tại khách quan, phù hợp với tình tiết vụ án xảy ra; 2) Tính liên quan, thể hiện ở chỗ những gì có thật phải có quan hệ và có ý nghĩa đối với những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án; 3) Tính hợp pháp, thể hiện ở chỗ bằng chứng phải được phát hiện, thu thập, kiểm tra, đánh giá theo trình tự luật định.
BẰNG SÁNG CHẾ
Loại văn bằng bảo hộ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp, là chứng chỉ duy nhất của nhà nước xác nhận quyền sở hữu công nghiệp của chủ thể được cấp văn bằng - tác giả của sáng chế.
Bằng sáng chế do Cục sở hữu công nghiệp thuộc Bộ Khoa học công nghệ cấp, có hiệu lực trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
Văn bằng bảo hộ sáng chế là bằng độc quyền sáng chế, có hiệu lực từ ngày cấp đến hết 20 năm tính từ ngày nộp đơn hợp lệ.
Người được cấp bằng độc quyền sáng chế là chủ sở hữu của bằng độc quyền này và được độc quyền sử dụng sáng chế, yêu cầu cơ quan có thẩm quyền buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu bằng sáng chế chấm dứt hành vi vi phạm; có thể chuyển giao hoàn toàn cho người khác theo hợp đồng chuyển giao được đăng ký tại Cục sở hữu công nghiệp.
BẮT CÓC NHẰM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
(Hành vi) bắt giữ con tin, đe dọa chủ tài sản phải giao nộp tài sản nếu không tính mạng, sức khỏe của con tin sẽ bị xâm hại.
Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm không chỉ quyền sở hữu mà còn xâm phạm quyền nhân thân của người khác. Hành vi này được quy định là tội phạm với tội danh riêng - tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản của công dân kể từ khi Bộ luật hình sự đầu tiên (Bộ luật hình sự năm 1985) có hiệu lực. Tuy nhiên, trong Bộ luật hình sự này, hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản vẫn chưa được quy định thành tội danh riêng. Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999, Bộ luật hình sự năm 2015 là tội phạm thuộc Chương “Các tội xâm phạm sở hữu". Trước khi được quy định thành tội danh riêng, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản được coi là một dạng đặc biệt của hành vi cướp tài sản.
Theo Bộ luật hình sự năm 1999 và Bộ luật hình sự năm 2015, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản đòi hỏi những dấu hiệu sau: chủ thể có hành vi bắt giữ con tin, hành vi này có thể được thực hiện bằng những biện pháp khác nhau (dùng vũ lực, dụ dỗ, lừa dối...); chủ thể có hành vi đe dọa chủ tài sản là sẽ dùng vũ lực đối với con tin (giết chết hoặc gây thương tích) nếu yêu cầu phải giao nộp tài sản không được thỏa mãn, hành vi này có thể được thực hiện trực tiếp hoặc qua thư, điện thoại...
Với dấu hiệu như vậy, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản trước hết xâm phạm tự do thân thể, đe dọa tính mạng, sức khỏe của con tin và qua đó xâm phạm tự do ý chí của người bị đe dọa.
Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản coi là hoàn thành kể từ khi chủ thể đã thực hiện hành vi bắt giữ con tin và hành vi đe dọa chủ tài sản, không kể đã chiếm đoạt được tài sản hay chưa cũng như không kể đã dùng vũ lực đối với con tin hay chưa. Nếu hành vi phạm tội đã gây thương tích cho con tin thì hậu quả đó được coi là tình tiết định khung hình phạt tăng nặng (tùy mức độ thương tích mà thuộc khung tăng nặng cụ thể). Nếu hành vi phạm tội đã gây ra hậu quả chết người và lỗi của chủ thể đối với hậu quả đó là vô ý thì hậu quả này được coi là tình tiết định khung hình phạt tăng nặng. Nếu chủ thể có lỗi cố ý đối với hậu quả chết người thì họ phải chịu trách nhiệm hình sự cả về tội giết người.
Hình phạt được quy định cho tội này có mức cao nhất là tù chung thân.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 169 Bộ luật hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015.
BẮT GIỮ
Biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự.
Ở Việt Nam, trong thời kỳ phong kiến đã có một số quy định về thẩm quyền bắt người, giam giữ tiến bộ. Các quy định này đã hạn chế sự tùy tiện, lộng hành của hệ thống nha dịch và cường hào ác bá. Bộ Quốc triều hình luật (luật Hồng Đức) đã có nhiều quy định tiến bộ về việc bắt, giữ, giam. Tại Bộ luật này ngoại trừ chương Danh lệ, chương Tạp luật, chương Hộ hôn, chương Điền sản còn trong hầu hết các chương đều có quy định về việc bắt, giữ, giam. Đặc biệt tại chương Đoán ngục có tới 18 điều, chương Bộ vong có 9 điều quy định liên quan đến việc bắt và giam giữ.
Bộ luật Gia Long, trong các quyền 18,19 có nhiều quy định về việc bắt và giam giữ như Điều 21, Điều 22, Điều 23, Điều 28...
Sau khi giành được chính quyền năm 1945, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản tố tụng hình sự quy định về thủ tục bắt người như Luật số 103/SL/005 ngày 20.5.1957; sắc luật 002/SL ngày 18.6.1957; sắc luật số 02-SL ngày 15.3.1976. Để cụ thể hóa các quy định của Luật số 103-SL/005 ngày 10.7.1957, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 301-TTg trong đó có chương II quy định về việc tạm giữ, tạm giam, tạm tha.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 đã quy định khá cụ thể các trường hợp bắt: bắt bị can, bị cáo để tạm giam, bắt người trong trường hợp khẩn cấp; bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã. Bộ luật cũng quy định các vấn đề về thẩm quyền, đối tượng và thủ tục áp dụng bắt trong các trường hợp cụ thể. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì:
Bắt giữ được áp dụng đối với người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện, người thực hiện tội phạm đang bị đuổi bắt hoặc người đang bị truy nã để ngăn chặn tội phạm, đảm bảo cho hoạt động phát hiện, xử lý tội phạm hoặc bảo đảm thi hành án. Bất kỳ người nào cũng có quyền bắt giữ các đối tượng nêu trên và dẫn giải đến cơ quan công an, Viện kiểm sát hoặc ủy ban nhân dân nơi gần nhất. Trong khi bắt giữ có quyền tước vũ khí của người bị bắt (Điều 82).
Sau khi nhận người bị bắt, cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay và trong thời hạn 24 giờ phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt. Đối với người bị truy nã thì sau khi lấy lời khai, cơ quan điều tra phải thông báo ngay cho cơ quan đã ra lệnh truy nã và giao ngay người đó cho trại tạm giam nơi gần nhất để giam giữ tạm thời trước khi cơ quan ra lệnh truy nã đến nhận (Điều 83).
Biện pháp bảo đảm trật tự phiên tòa do chủ tọa phiên tòa quyết định. Trong trường hợp này, lệnh bắt giữ của chủ tọa phiên tòa do cảnh sát nhân dân bảo vệ phiên tòa thực hiện.
BẮT KHẨN CẤP
Biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do người có thẩm quyền áp dụng trong các trường hợp khẩn cấp để bảo đảm cho hoạt động phát hiện, điều tra tội phạm mà không cần lệnh có phê chuẩn trước của Viện kiểm sát.
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì bắt khẩn cấp được áp dụng đối với người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm, để ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ tại nơi có dấu vết tội phạm.
Những người có thẩm quyền ra lệnh bắt khẩn cấp là thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp, người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương, người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới, người chỉ huy máy bay, tàu biển khi máy bay, tàu biển đã rời sân bay, bến cảng.
Trong mọi trường hợp, việc bắt khẩn cấp phải được báo ngay cho viện kiểm sát nhân dân cùng cấp bằng văn bản, kèm theo các tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp để xét phê chuẩn. Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp phải kiểm sát chặt chẽ việc bắt khẩn cấp. Trong trường hợp cần thiết, viện kiểm sát nhân dân phải trực tiếp gặp, hỏi người bị bắt trước khi xem xét, quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn.
Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị phê chuẩn và các tài liệu có liên quan đến việc bắt khẩn cấp, viện kiểm sát nhân dân phải ra quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn, nếu viện kiểm sát nhân dân không phê chuẩn thì người đã ra lệnh bắt phải trả tự do ngay cho người bị bắt.
BẮT NGƯỜI PHẠM TỘI
Biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do người có thẩm quyền áp dụng trong các trường hợp do pháp luật quy định để ngăn chặn tội phạm, bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành án.
Theo quy định của pháp luật, có các hình thức bắt người là: bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã, bắt khẩn cấp, bắt bị can, bị cáo để tạm giam.
Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân là nguyên tắc cơ bản được Hiến pháp quy định. Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn của viện kiểm sát. Vì vậy, pháp luật quy định rất chặt chẽ căn cứ, thẩm quyền, đối tượng và thủ tục bắt người phạm tội. Trừ bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã thì việc bắt người phải có lệnh; người thi hành lệnh phải đọc và giải thích lệnh cho người bị bắt; không được bắt người vào ban đêm; khi tiến hành bắt người phải có người chứng kiến và phải lập biên bản về việc bắt.
Ngoài biện pháp ngăn chặn, người bị kết án phạt tù đang tại ngoại và đã có quyết định thi hành án phạt tù mà không tự nguyện có mặt tại cơ quan có thẩm quyền để thi hành án thì cơ quan có thẩm quyền thực hiện việc bắt người đó để thi hành án (Điều 260 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003).
BẮT OAN
Bắt người không có căn cứ pháp luật.
Điều 71 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định "Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật". Quy định đó của Hiến pháp nhằm bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về thân thể - một trong những quyền cơ bản của công dân.
Bộ luật tố tụng hình sự quy định nhiều hình thức bắt người khác nhau là bắt người phạm tội quả tang, bắt người có lệnh truy nã, bắt khẩn cấp, bắt tạm giam, bắt thi hành án. Mỗi hình thức bắt nêu trên có những căn cứ do pháp luật quy định. Người và cơ quan có thẩm quyền chỉ được bắt người khi có những căn cứ đó. Việc bắt người mà thiếu những căn cứ pháp luật quy định là bắt oan.
Nhà nước ta có chính sách xử lý rất nghiêm khắc đối với hành vi bắt oan người khác. Người có hành vi bắt oan người khác phải chịu trách nhiệm hình sự về tội bắt người trái pháp luật được quy định tại Điều 123 Bộ luật hình sự năm 1999. Người bắt oan người khác phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần cho người bị bắt (Nghị quyết số 388/2002/NQ-UBTVQH11 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội).
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, bắt oan được quy định tại Điều 157 Bộ luật hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015.
BẮT QUẢ TANG
Là việc bắt người khi người đó đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt.
Người đang thực hiện tội phạm là người đang thực hiện hành vi mà hành vi đó cấu thành một tội phạm cụ thể nhưng chưa hoàn thành tội phạm thì bị phát hiện.
Ngay sau khi thực hiện hành vi phạm tội thì bị phát hiện là trường hợp mà sau khi thực hiện hành vi phạm tội xong, người phạm tội chưa kịp cất giấu công cụ, phương tiện, tẩu tán tang vật thì bị phát hiện.
Đang bị đuổi bắt là trường hợp người phạm tội đang thực hiện hành vi phạm tội hoặc sau khi thực hiện hành vi phạm tội thì bị phát hiện nên người đó đã chạy trốn và bị đuổi bắt. Việc đuổi bắt phải liền ngay sau khi người đó chạy trốn.
Theo quy định tại Điều 82 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đối với các trường hợp bắt quả tang thì không cần có lệnh bắt mà bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và giải ngay đến cơ quan công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản và giải ngay người bị bắt đến cơ quan điều tra có thẩm quyền.
Khi bắt quả tang thì người nào cũng có quyền tước vũ khí, hung khí của người bị bắt nhưng không được khám người.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, bắt quả tang được quy định tại Điều 111 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015.
BẤT ĐỘNG SẢN
Các tài sản không di, dời được.
Bất động sản bao gồm đất đai, nhà ở, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà ở, công trình xây dựng đó; các tài sản khác gắn liền với đất đai; các tài sản khác do pháp luật quy định.
Một trong những cách phân loại vật (tài sản) được xem là chính thống, quan trọng nhất cũng bắt nguồn từ cổ luật La Mã và cho đến nay vẫn được ghi nhận trong các Bộ luật dân sự của nhiều nước trên thế giới là tài sản được phân chia thành động sản và bất động sản. Tuy nhiên, tiêu chí để phân loại cũng như quan điểm phân loại trong các Bộ luật dân sự của các nước có những điểm khác nhau, dẫn đến những tài sản nào được coi là bất động sản, động sản cũng khác nhau. Việc phân loại tài sản thành động sản và bất động sản được hình thành trong quá trình lịch sử do giá trị đặc biệt của đất đai về kinh tế, xã hội cùng với vị trí tự nhiên của nó.
Xét về phương diện vật lý, chỉ đất đai mới là tài sản “không di, dời được”. Tuy nhiên đất đai được quy định ở đây phải được hiểu là từng mảnh đất riêng biệt, gắn với nó là quyền sử dụng mảnh đất đó theo quy định của pháp luật Việt Nam, chúng được xác định trên bản đồ, cũng như trên thực địa. Đất đai (mảnh đất) với tư cách là bất động sản phải bao gồm mảnh đất cùng khoảng không trên mặt đất và khối chiều sâu dưới mặt đất.
Nhà ở, các công trình xây dựng gắn liền với đất đai được coi là bất động sản phái sinh từ bất động sản ban đầu là đất đai, bởi trên đó tọa lạc nhà ở và các công trình xây dựng.
Các tài sản khác gắn liền với nhà ở, công trình xây dựng đều coi là bất động sản. Việc gán một động sản vào nhà ở, công trình xây dựng phải có mục đích nhằm hoàn chỉnh các đối tượng đó. Việc gắn động sản vào nhà ở, công trình xây dựng phải do người có quyền đối với nhà ở, công trình xây dựng đó thực hiện.
Các tài sản khác gắn liền với đất đai là những tài sản do tự nhiên tạo ra (hầm, mỏ) hoặc do con người tạo lập nhưng sống nhờ vào đất (cây trồng). Những tài sản này chỉ được coi là bất động sản khi nó "gắn liền" với đất do vị trí tự nhiên, nếu tách ra khỏi đất đai (khai thác quặng hoặc cây đã bị đốn, mùa màng đã thu hoạch...) thì các tài sản này lại trở thành động sản.
Ngoài những tài sản được quy định trong Bộ luật dân sự được coi là bất động sản, các văn bản pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành có thể quy định tài sản này hay tài sản khác là bất động sản.
Bất động sản có thể là đối tượng thế chấp để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ dân sự.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, các loại bất động sản được quy định tại khoản 1 Điều 107 Bộ luật dân sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 24 tháng 11 năm 2015.
BẤT ĐỘNG SẢN LIỀN KỀ
Bất động sản cùng loại, sát nhau và giữa chúng tồn tại một ranh giới phân cách về địa lý cũng như về pháp lý.
Bất động sản liền kề được phân cách bởi một ranh giới. Ranh giới giữa các bất động sản liền kề có thể là: mốc giới do các bên thỏa thuận, theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc được xác định theo tập quán; theo ranh giới đã tồn tại từ 30 năm mà không có tranh chấp.
BẤT HỒI TỐ
Quy định của pháp luật về hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật về thời gian. Văn bản quy phạm pháp luật chỉ có hiệu lực điều chỉnh đối với những quan hệ xã hội phát sinh từ khi văn bản đó có hiệu lực, nó không có hiệu lực ngược lại thời gian (hồi tố). Trong trường hợp thật cần thiết, người làm luật có thể quy định hiệu lực hồi tố của một số quy phạm pháp luật trên cơ sở nguyên tắc nhân đạo của pháp luật.
Pháp luật hình sự nước ta quy định hiệu lực bất hồi tố đối với các điều luật quy định không có lợi cho người phạm tội như quy định về một tội phạm mới, một hình phạt nặng hơn, một tình tiết tăng nặng mới hoặc hạn chế phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án tích... Các quy định này không được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã được thực hiện trước khi quy phạm đó có hiệu lực thi hành (khoản 2 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 1999).
Ngược lại, thể hiện nguyên tắc nhân đạo, pháp luật hình sự nước ta quy định hiệu lực hồi tố đối với các điều luật xóa bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng nặng, quy định một hình phạt nhẹ hơn, một tình tiết giảm nhẹ mới hoặc mở rộng phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án tích... Các quy định này được áp dụng cả đối với hành vi phạm tội đã được thực hiện trước khi quy phạm đó có hiệu lực thi hành (khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 1999).
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, hiệu lực bất hồi tố đối với các điều luật quy định không có lợi cho người phạm tội được quy định tại khoản 2 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015. Hiệu lực hồi tố đối với các điều luật có lợi cho người phạm tội được quy định tại khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015.
BẤT KHẢ XÂM PHẠM
Không ai có thể xâm phạm đến, đụng đến.
Quyền của một quốc gia, nhà nước, cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật, không bị bất cứ một cơ quan, tổ chức, cá nhân khác xâm phạm đến một số đối tượng của quốc gia, nhà nước, cơ quan, tổ chức, cá nhân đó.
Quốc gia có quyền bất khả xâm phạm về độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, biên giới... Hiến pháp Việt Nam năm 1992 quy định "công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể... bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu người đó “không đồng ý, trừ trường hợp được pháp luật cho phép...".
Pháp luật ngoại giao quốc tế quy định quyền bất khả xâm phạm của viên chức ngoại giao, nơi ở và trụ sở của cơ quan ngoại giao nước ngoài, thư tín ngoại giao...
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, bất khả xâm phạm được quy định tại khoản 1 Điều 20 Hiến pháp năm 2013 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 28 tháng 11 năm 2013.
BẦU CỬ
Phương thức lựa chọn người làm đại biểu, thay mặt thực hiện quyền lực nhà nước trong các xã hội dân chủ theo nguyên tắc tất cả quyền nhà nước thuộc về nhân dân.
Do bầu cử là một công việc hệ trọng của một quốc gia cho nên ở tất cả các nước việc bầu cử đều được pháp luật, mà trước hết là hiến pháp thiết định thành một nguyên tắc hiến định và được pháp luật bầu cử quy định thành chế độ bầu cử.
Chế độ bầu cử của các nước thường được thực hiện qua hai hình thức: bầu cử trực tiếp và bầu cử gián tiếp. Xét một cách khách quan, bầu cử trực tiếp được đánh giá là tiến bộ hơn hình thức bầu cử gián tiếp. Trong hình thức bầu cử trực tiếp, chế độ phổ thông đầu phiếu được xem là tiến bộ nhất, vì việc bầu cử được thực hiện theo các nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Trong lịch sử chế độ bầu cử dân chủ của nước ta, từ cuộc bầu cử đầu tiên được tổ chức ngày 6.01.1946 đã thực hiện theo chế độ bầu cử phổ thông, bình đẳng, trực tiếp, bỏ phiếu kín. Chế độ bầu cử đó liên tục được thực hiện.
Bầu cử gián tiếp là hình thức bầu cử khi cử tri không trực tiếp bầu ra người đại biểu của mình mà chỉ bầu ra các đại biểu, thường được gọi là đại cử tri và chính các đại cử tri mới bầu ra người cần được bầu- hoặc cử tri trực tiếp bầu ra đại biểu cấp cơ sở và các đại biểu cấp cơ sở của địa phương cùng với các đại biểu ở cấp cơ sở khác bầu ra đại biểu cấp trên trực tiếp để các đại biểu cấp trên trực tiếp này lại cùng nhau bầu ra cấp cao hơn, lần lượt cho đến cấp trung ương (Cộng hòa nhân dân Trung Hoa thực hiện chế độ bầu cử này).
Trong các cuộc bầu cử thường xảy ra trường hợp bầu cử lại, bầu cử thêm và bầu cử bổ sung. Khi việc bầu cử có sự vi phạm nghiêm trọng pháp luật bầu cử thì phải tổ chức để bầu cử lại. Bầu cử thêm thường xảy ra khi số người trúng cử chưa đủ số đại biểu phân bổ cho đơn vị bầu cử đó. Bầu cử bổ sung xuất hiện khi xảy ra trường hợp số đại biểu được bầu cho một đơn vị bầu cử, do những lý do khác nhau, bị khuyết do chết, mất khả năng làm nhiệm vụ đại biểu hoặc những lý do khác. Để bảo đảm đủ số đại biểu thay mặt cho đơn vị bầu cử, phải tổ chức cuộc bầu cử mới, bổ sung để bầu ra số đại biểu bị thiếu, bổ sung cho đủ số đại biểu được phân bổ.
BẦU CỬ ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
Việc cử tri lựa chọn người đại diện cho minh vào Hội đồng nhân dân - cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương.
Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân là việc cử tri tham gia bỏ phiếu theo các nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và kín để bầu những đại biểu mà mình tín nhiệm vào Hội đồng nhân dân các cấp. Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân là hoạt động chính trị liên quan đến việc hình thành cơ quan đại biểu của nhân dân địa phương, cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Để tiến hành bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, cử tri trực tiếp tham gia bỏ phiếu bầu ra đại biểu mà minh tín nhiệm vào Hội đồng nhân dân các cấp. Việc bầu cử được tiến hành khi kết thúc nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân. Theo quy định của pháp luật hiện hành, nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân là 5 năm.
BẦU CỬ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
Việc cử tri lựa chọn người đại diện cho mình vào Quốc hội - cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.
Bầu cử đại biểu Quốc hội là việc cử tri tham gia bỏ phiếu theo các nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và kín để bầu những đại biểu mà mình tín nhiệm vào Quốc hội. Bầu cử đại biểu Quốc hội là hoạt động chính trị liên quan đến việc hình thành cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Để tiến hành bầu cử đại biểu Quốc hội, cử tri trực tiếp tham gia bỏ phiếu bầu ra đại biểu mà mình tín nhiệm vào Quốc hội. Việc bầu cử được tiến hành khi kết thúc nhiệm kỳ của Quốc hội. Theo quy định của Hiến pháp 2013 và pháp luật hiện hành, nhiệm kỳ của Quốc hội là 5 năm.
BÊN KÝ KẾT HỢP ĐỒNG
Là các cá nhân hay tổ chức có đủ tư cách chủ thể tham gia một cách bình đẳng, tự nguyện vào việc thỏa thuận một giao dịch nhất định. Trong đó, mỗi bên sẽ có các quyền và nghĩa vụ tương ứng với bên kia.
Các bên khi giao kết hợp đồng phải tuân thủ theo nguyên tắc tự do giao kết nhưng không trái với pháp luật và đạo đức xã hội. Theo nguyên tắc này, mỗi cá nhân có quyền tự do giao kết bất kỳ hợp đồng dân sự nào. Khi tham gia quan hệ hợp đồng, các bên có quyền bình đẳng với nhau về mọi phương ^ diện trong giao kết hợp đồng. Muốn xác định yếu tố pháp lý của hợp đồng dân sự phải dựa vào sự thống nhất ý chí của các bên. Nếu một trong các bên ký kết hợp đồng do bị lừa dối hoặc đe dọa, hợp đồng đểu bị coi là vô hiệu.
Một cá nhân trở thành bên giao kết hợp đồng dân sự khi có năng lực chủ thể, bao gồm năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự. Năng lực pháp luật dân sự do nhà nước ghi nhận nên chỉ nhà nước mới có quyền hạn chế. Năng lực hành vi dân sự là khả năng của cá nhân có thể tự thực hiện quyền và gánh vác nghĩa vụ theo hợp đồng. Những người khác nhau về độ tuổi, về sức khỏe, về kinh tế... thì khác nhau về khả năng tham gia vào những loại hợp đồng khác nhau. Ví dụ: trẻ em chỉ được tham gia vào những giao dịch dân sự đơn giản phục vụ nhu cầu sinh hoạt thiết yếu, giá trị nhỏ.
Hợp đồng sẽ chấm dứt hiệu lực khi cá nhân giao kết hợp đồng chết, pháp nhân hoặc các chủ thể khác chấm dứt nếu hợp đồng do chính cá nhân hoặc pháp nhân đó thực hiện.
BỆNH NGHỀ NGHIỆP
Bệnh phát sinh mang tính chất đặc trưng nghề nghiệp hoặc liên quan đến nghề nghiệp, do tác hại thường xuyên và kéo dài của điều kiện lao động xấu.
Từ khi có lao động, con người đã chịu ảnh hưởng tác hại của nghề nghiệp và bị bệnh nghề nghiệp. Trước Công nguyên, Hippôcrat (Hippocrate; 460 - 377 tCn) đã phát hiện bệnh nhiễm độc chì. Thế kì I, Pline đã phát hiện những ảnh hưởng xấu của bụi đến cơ thể người. Thế kỷ II, Galien đã tả những bệnh mà công nhân mỏ mắc phải. Những thế kỷ sau đó đã phát hiện bệnh nhiễm độc thủy ngân và những bệnh nghề nghiệp khác.
Vấn đề bệnh nghề nghiệp được pháp luật của tất cả các nước quan tâm với các nội dung: ghi nhận danh mục bệnh và chế độ đối với người lao động bị bệnh nghề nghiệp. Danh mục bệnh nghề nghiệp ở các nước khác nhau có thể khác nhau do trình độ công nghệ và khả năng kinh tế xã hội của từng nước. Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) có một số công ước về bệnh nghề nghiệp, xếp bệnh nghề nghiệp thành 29 nhóm với hàng trăm bệnh nghề nghiệp khác nhau và bồi thường cho người lao động bị bệnh nghề nghiệp như Công ước số 18 (1925), Công ước số 142 (1934), Công ước số 121 (1964).
ở Việt Nam, trên cơ sở nghiên cứu và khảo sát dịch bệnh học, danh mục bệnh nghề nghiệp do Bộ Lao động Thương binh và Xã hội phối hợp với Bộ Y tế ban hành sau khi đã tham khảo ý kiến của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam và Tổ chức đại diện giới sử dụng lao động. Năm 1976, Nhà nước đã quy định 8 bệnh nghề nghiệp được bảo hiểm và năm 1991 đã công nhận thêm 8 bệnh nghề nghiệp, đến nay có 16 bệnh nghề nghiệp được công nhận bảo hiểm: 1) Bệnh bụi phổi do silic; 2) Bệnh bụi phổi do amiăng: 3) Bệnh bụi phổi bông; 4) Bệnh nhiễm độc chì và các hợp chất chì; 5) Bệnh nhiễm độc benzen và các đồng đẳng; 6) Bệnh nhiễm độc thủy ngân và các hợp chất thủy ngân; 7) Bệnh nhiễm độc mangan và các hợp chất mangan; 8) Bệnh nhiễm độc TNT (trinitrotoluen); 9) Bệnh nhiễm các tia phóng xạ và tia X; 10) Bệnh điếc nghề nghiệp do tiếng ồn; 11) Bệnh rung chuyển nghề nghiệp; 12) Bệnh sạm da nghề nghiệp; 13) Bệnh loét da, viêm da, chàm tiếp xúc; 14) Bệnh lao nghề nghiệp; 15) Bệnh viêm gan virut nghề nghiệp; 16) Bệnh do Leptospira nghề nghiệp.
Nguyên nhân của bệnh nghề nghiệp chủ yếu là do vệ sinh lao động không đảm bảo hoặc do các nguồn độc hại trong môi trường làm việc gây ra, hậu quả của nó là người lao động bị suy giảm khả năng lao động hoặc tử vong. Vì vậy, người sử dụng lao động luôn luôn phải có trách nhiệm ngăn ngừa bệnh nghề nghiệp; trả các chi phí cấp cứu, điều trị và tiền lương trong thời gian điều trị, bồi thường cho người lao động bị bệnh nghề nghiệp. Người lao động bị bệnh nghề nghiệp được hưởng các chế độ bảo hiểm theo quy định của pháp luật.
BÍ MẬT NHÀ NƯỚC
là thông tin có nội dung quan trọng do người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xác định căn cứ vào quy định của Luật này, chưa công khai, nếu bị lộ, bị mất có thể gây nguy hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc.
Hình thức chứa bí mật nhà nước bao gồm tài liệu, vật, địa điểm, lời nói, hoạt động hoặc các dạng khác..
(Theo Khoản 1, Điều 2, Luật Bảo vệ bí mật nhà nước 2018)
GÓC NHÌN PHÁP LÝ
INFOGRAPHIC & VIDEO MỚI
VĂN BẢN MỚI BAN HÀNH
- Số hiệu: 608/KH-UBND - Ngày ban hành: 18/03/2024
- Số hiệu: 232/QĐ-TTg - Ngày ban hành: 18/03/2024
- Số hiệu: 184/QĐ-BNV - Ngày ban hành: 18/03/2024
- Số hiệu: 175/QĐ-UBND - Ngày ban hành: 18/03/2024
- Số hiệu: 665/QĐ-BTNMT - Ngày ban hành: 18/03/2024