Thuật ngữ pháp lý
Đang xem kết quả 41 đến 60 trong tổng số 9.960 thuật ngữ
BẢN ÁN
Văn bản ghi nhận phán quyết của tòa án sau khi xét xử một vụ án.
Thuật ngữ “bản án” được sử dụng lần đầu tiên tại Sắc lệnh thiết lập các tòa án quân sự ngày 13.9.1945. Tuy nhiên, đến ngày 3.3.1969 Tòa án nhân dân tối cao mới ban hành Thông tư số 1-UB hướng dẫn về cơ cấu bản án và cách viết bản án.
Bản án đánh dấu sự kết thúc toàn bộ quá trình điều tra, truy tố, xét xử, cho nên nội dung của nó phải phản ánh những kết quả của phiên tòa và ý kiến phân tích, đánh giá của hội đồng xét xử. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có nhiệm vụ viết bản án. Ở một số nước, thuật ngữ bản án chỉ dùng trong trường hợp xét xử vụ án hình sự, còn trong việc giải quyết vụ kiện dân sự thì văn bản ghi nhận quyết định của Tòa án tuyên xử gọi là quyết định của tòa án. Ở Việt Nam, trong lĩnh vực hình sự cũng như dân sự đều dùng thuật ngữ chung là bản án. Bản án trong lĩnh vực hình sự gọi là bản án hình sự. Bản án trong lĩnh vực dân sự gọi là bản án dân sự.
Theo Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2003, tòa án nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để ra bản án hình sự (Xt. Bản án hình sự).
Đối với bản án dân sự, theo Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 thì tòa án ra bản án dân sự nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Xt. Bản án dân sự).
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, bản án hình sự được quy định tại Điều 260 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015; bản án dân sự được quy định tại Điều 266, Điều 313 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 25 tháng 11 năm 2015.
BẢN ÁN DÂN SỰ
Văn bản ghi nhận phán quyết của Tòa án sau khi xét xử một vụ án dân sự. Bản án dân sự phản ánh kết quả xét xử một vụ án dân sự cụ thể của một tòa án có thẩm quyền nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để đưa ra các quyết định của tòa án về từng vấn đề phải giải quyết trong vụ án.
Bản án dân sự có hai loại: Bản án dân sự sơ thẩm và bản án dân sự phúc thẩm.
Bản án dân sự sơ thẩm là văn bản tố tụng do hội đồng xét xử sơ thẩm lập, thể hiện quyết định của tòa án về xét xử vụ án dân sự lần đầu. Bản án dân sự sơ thẩm có hiệu lực pháp luật sau khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Theo quy định tại Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự, bản án dân sự sơ thẩm gồm có: phần mở đầu; phần nội dung vụ án và nhận định của tòa án; phần quyết định. Trong phần mở đầu ghi tên tòa án xét xử sơ thẩm; số và ngày thụ lý vụ án; số bản án và ngày tuyên án; họ, tên của các thành viên hội đồng xét xử, thư ký tòa án, kiểm sát viên, người giám định, người phiên dịch; tên, địa chỉ của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, cơ quan, tổ chức khởi kiện; người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; đối tượng tranh chấp; số, ngày, tháng, năm của quyết định đưa vụ án ra xét xử; xét xử công khai hoặc xét xử kín; thời gian và địa điểm xét xử. Trong phần nội dung vụ án và nhận định của tòa án ghi yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, khởi kiện của cơ quan, tổ chức; đề nghị, yêu cầu phản tố của bị đơn; đề nghị, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; nhận định của tòa án; điểm, khoản và điều luật của văn bản quy phạm pháp luật mà tòa án căn cứ để giải quyết vụ án. Trong nhận định của tòa án phân tích những căn cứ để chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu, đề nghị của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Trong phần quyết định phải ghi rõ các quyết định của tòa án về từng vấn đề phải giải quyết trong vụ án, về án phí và quyền kháng cáo đối với bản án; trường hợp có quyết định phải thi hành ngay thì phải ghi rõ quyết định đó.
Bản án dân sự phúc thẩm là văn bản tố tụng do hội đồng xét xử phúc thẩm lập, thể hiện quyết định của tòa án về xét xử lại vụ án dân sự theo thủ tục phúc thẩm. Bản án dân sự phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án. Theo quy định tại Điều 279 Bộ luật tố tụng dân sự, bản án phúc thẩm gồm có: phần mở đầu; phần nội dung vụ án, kháng cáo, kháng nghị và nhận định của tòa án; phần quyết định. Trong phần mở đầu ghi tên của tòa án xét xử phúc thẩm; số và ngày thụ lý vụ án; số bản án và ngày tuyên án; họ, tên của các thành viên hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa, kiểm sát viên, người giám định, người phiên dịch; tên, địa chỉ của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, cơ quan, tổ chức khởi kiện; người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ; người kháng cáo, viện kiểm sát kháng nghị; xét xử công khai hoặc xét xử kín; thời gian và địa điểm xét xử. Trong phần nội dung vụ án, kháng cáo, kháng nghị và nhận định của tòa án tóm tắt nội dung vụ án, quyết định của tòa án cấp sơ thẩm; nội dung kháng cáo, kháng nghị; nhận định của tòa án cấp phúc thẩm; điểm, khoản và điều của văn bản quy phạm pháp luật mà tòa án cấp phúc thẩm căn cứ để giải quyết vụ án. Trong nhận định của tòa án cấp phúc thẩm phải phân tích những căn cứ để chấp nhận hoặc không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị. Trong phần quyết định phải ghi rõ các quyết định của tòa án cấp phúc thẩm về từng vấn đề phải giải quyết trong vụ án do có kháng cáo, kháng nghị, về việc phải chịu án phí sơ thẩm, phúc thẩm.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, bản án dân sự sơ thẩm được quy định tại Điều 266 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; bản án dân sự phúc thẩm được quy định tại Điều 313 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 25 tháng 11 năm 2015.
BẢN ÁN HÀNH CHÍNH
Văn bản ghi nhận phán quyết của Tòa án sau khi xét xử một vụ án hành chính.
Theo quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, bản án hành chính phải có các nội dung sau đây: ngày, tháng, năm, địa điểm tiến hành phiên tòa; họ, tên thành viên hội đồng xét xử, kiểm sát viên, thư ký phiên tòa; tên, địa chỉ của các đương sự, người đại diện của họ; yêu cầu của các đương sự; những tình tiết đã được chứng minh, những chứng cứ, căn cứ pháp luật để giải quyết vụ án; các quyết định của tòa án; án phí, người phải chịu án phí; quyền kháng cáo của đương sự. Đối với bản án phúc thẩm, ngoài các nội dung nêu trên, còn phải nêu rõ phần quyết định của bản án bị kháng cáo hoặc kháng nghị, nội dung kháng cáo, kháng nghị và quyết định của tòa án cấp phúc thẩm. Bản án của Hội đồng xét xử phải được chủ tọa phiên tòa công bố toàn văn. Bản sao bản án phải được gửi cho đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày ra bản án (Xt. Vụ án hành chính).
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, bản án hành chính sơ thẩm được quy định tại Điều 194 Bộ luật tố tụng hành chính năm 2015, bản án hành chính phúc thẩm được quy định tại Điều 242 Bộ luật tố tụng hành chính năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 25 tháng 11 năm 2015.
BẢN ÁN HÌNH SỰ
Văn bản ghi nhận phán quyết của Tòa án sau khi xét xử một vụ án hình sự.
Theo quy định tại các điều 222, 223 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, bản án hình sự phải được thảo luận và thông qua tại phòng nghị án. Chỉ có các thành viên của hội đồng xét xử mới có quyền thảo luận và thông qua bản án. Chủ tọa phiên tòa là người viết bản án. Cơ cấu chung của bản án gồm ba phần: 1) Phần mở đầu của bản án ghi rõ: giờ, ngày, tháng, năm và địa điểm phiên tòa; họ tên của các thành viên Hội đồng xét xử và thư ký phiên tòa; họ tên của kiểm sát viên; họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi sinh, nơi cư trú, nghề nghiệp, trình độ văn hóa, thành phần xã hội và tiền án của bị cáo; ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam; họ tên, tuổi, nghề nghiệp, nơi sinh, nơi cư trú của người đại diện hợp pháp của bị cáo; họ tên của người bào chữa; họ tên, tuổi, nghề nghiệp, nơi cư trú của người bị hại; nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và những đại diện hợp pháp của họ. 2) Phần nội dung của bản án phải trình bày việc phạm tội của bị cáo, phân tích chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, xác định bị cáo có phạm tội hay không phạm tội và nếu bị cáo phạm tội thì phạm tội gì, theo điều khoản nào của Bộ luật hình sự, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ và biện pháp xử lý (hình phạt áp dụng, bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng, án phí…). Nếu bị cáo không phạm tội thì bản án phải ghi rõ căn cứ xác định bị cáo vô tội như: không có sự việc phạm tội, hành vi của bị cáo không cấu thành tội phạm… và phải giải quyết khôi phục danh dự, quyền lợi, nghĩa vụ cho họ. 3) Phần cuối cùng của bản án ghi những quyết định của tòa án và quyền kháng cáo đối với bản án.
Đối với bản án phúc thẩm, phần đầu bản án giống như các quy định trong bản án sơ thẩm, phần nội dung phải trình bày tóm tắt nội dung vụ án, quá trình giải quyết vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm, nội dung kháng cáo, kháng nghị và các căn cứ để đưa ra quyết định. Phần cuối cùng của bản án phúc thẩm ghi những quyết định của tòa án. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật ngày kể từ khi tuyên án.
Tòa án ra bản án nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thảo luận tập thể và quyết định theo đa số. Sau khi bản án đã được thông qua, các thành viên của Hội đồng xét xử phải ký vào bản án.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, bản án hình sự được quy định tại Điều 259 và Điều 260 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015.
BẢN ÁN LAO ĐỘNG
Văn bản ghi nhận phán quyết của Tòa án sau khi xét xử một vụ án lao động.
Bản án lao động phải phản ánh thời gian, địa điểm tiến hành phiên tòa; họ, tên, chức danh của những người tiến hành tố tụng; họ, tên, địa chỉ của những người tham gia tố tụng; yêu cầu của đương sự; những tình tiết đã được chứng minh; những chứng cứ, căn cứ pháp luật để giải quyết vụ án; các quyết định của tòa án...
Cơ cấu của bản án lao động thường chia làm ba phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần quyết định. Bản án phải có chữ ký của thành viên Hội đồng xét xử và có dấu của tòa án, được lưu trong hồ sơ vụ án và được gửi cho các bên đương sự.
BẢN CÁO BẠCH
Bản trình bày rõ ràng, công khai để mọi người biết về tình hình tài chính, hoạt động kinh doanh và kế hoạch sử dụng số tiền thu được từ việc phát hành chứng khoán của tổ chức phát hành chứng khoán.
Bản cáo bạch là tài liệu bắt buộc phải có trong hồ sơ mà tổ chức phát hành xin phép phát hành chứng khoán ra công chúng (trừ trường hợp phát hành trái phiếu chính phủ).
Bản cáo bạch phải đáp ứng yêu cầu của pháp luật quy định như thông tin phải trung thực, rõ ràng nhằm giúp cho người đầu tư và công ty chứng khoán đánh giá đúng tình hình tài chính, hoạt động kinh doanh và triển vọng của tổ chức phát hành chứng khoán. Nội dung bản cáo bạch gồm tên đầy đủ và tên giao dịch của tổ chức phát hành; địa chỉ trụ sở chính; tóm tắt điều lệ hoạt động; cơ cấu tổ chức; kết quả hoạt động kinh doanh, tiếp thị trong hai năm liên tục gần nhất; tình hình vay nợ hiện tại; phương án phát hành... Sau khi nhận được giấy phép phát hành, tổ chức phát hành chứng khoán phải lập bản cáo bạch tóm tắt và công bố tại tất cả các chi nhánh, đại lý phát hành và ở những nơi mà người đầu tư dễ dàng tiếp nhận nhằm giúp các nhà đầu tư đánh giá và đưa ra các quyết định mua chứng khoán.
Lập và công bố bản cáo bạch thể hiện nguyên tắc công khai của thị trường chứng khoán nên pháp luật của các nước về thị trường chứng khoán đều có các quy định về trình tự, thủ tục lập và nội dung bắt buộc phải có của bản cáo bạch.
BẢN CÁO TRẠNG
Văn bản pháp lý do Viện kiểm sát lập ra khẳng định việc truy tố bị can ra trước tòa án để xét xử.
Trước khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 được ban hành, thủ tục làm và phê chuẩn cáo trạng được quy định tại Thông tư số 427-TT/LB ngày 28.6.1963 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Công an.
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, bản cáo trạng là căn cứ làm phát sinh hoạt động xét xử vụ án hình sự và giới hạn phạm vi xét xử của tòa án. Cơ cấu bản cáo trạng gồm:
Phần đầu: nêu căn cứ các điều của Bộ luật tố tụng hình sự quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của viện kiểm sát nhân dân trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra; căn cứ các quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, quyết định phục hồi điều tra vụ án, quyết định khởi tố bổ sung bị can, quyết định nhập vụ án để xác định tính hợp pháp của các hoạt động điều tra, truy tố.
Phần nội dung: thời gian (giờ, ngày, tháng, năm), địa điểm xảy ra tội phạm; người thực hiện hành vi phạm tội; hành vi, động cơ, mục đích, phương pháp, thủ đoạn thực hiện tội phạm, hậu quả của tội phạm và những tình tiết quan trọng khác; viện dẫn chứng cứ xác định tội trạng của bị can, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can và các tình tiết khác có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án.
Phần kết luận: phải ghi rõ họ tên, nơi sinh, nơi cư trú, nghề nghiệp, tiền án, tiền sự của bị can; bị can bị tạm giam hay được tại ngoại; quyết định truy tố bị can về tội gì, theo điều khoản nào của Bộ luật hình sự.
Cuối cùng, phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập cáo trạng, họ tên, chức vụ của người lập, có chữ ký của người lập và đóng dấu của viện kiểm sát.
Bản cáo trạng phải được giao cho bị can và lưu trong hồ sơ vụ án.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, bản cáo trạng được quy định tại Điều 243 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015.
BẢN ĐỒ ĐỊA CHÍNH
Bản đồ tỉ lệ lớn, lập theo ranh giới hành chính của từng xã, phường, thị trấn thể hiện từng thửa đất và số hiệu của thửa đất được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận.
Bản đồ địa chính có các đặc điểm sau: Thứ nhất, đơn vị hành chính để lập bản đồ là xã, phường, thị trấn. Thứ hai, bản đồ thể hiện từng thửa đất theo mục đích sử dụng và chủ sử dụng; trong trường hợp một chủ sử dụng nhiều thửa đất liền kề thì các thửa đất đó vẫn được thể hiện riêng biệt trên bản đồ địa chính. Thứ ba, bản đồ địa chính phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận. Việc xác nhận không chỉ có giá trị với chủ sử dụng đất, mà quan trọng hơn chính là giá trị pháp lý của tờ bản đồ.
Về mặt quản lý nhà nước, bản đồ địa chính là cơ sở để triển khai việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; là một trong ba bộ phận hợp thành của hồ sơ địa chính gồm: bản đồ địa chính, sổ sách địa chính và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, bản đồ địa chính được quy định tại Thông tư số 25/2014/TT-BTNMT do Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành ngày 19 tháng 05 năm 2014.
BẢN GỐC
Là bản thảo cuối cùng được tác giả hay người có thẩm quyền duyệt.
Bản gốc phải là bản hoàn chỉnh về nội dung và thể thức, là cơ sở để in ấn, phổ biến, phát hành hay chuyển thể sang loại hình khác. Bản chính có thể được làm thành nhiều bản có giá trị như nhau. Ví dụ: hợp đồng (dân sự, kinh tế,...) có thể được làm thành nhiều bản, mỗi bên tham gia quan hệ hợp đồng giữ 1 bản và các bản có giá trị như nhau.
Riêng đối với văn bản quy phạm pháp luật, theo quy định của pháp luật, thì bản đăng trên công báo có cùng giá trị gốc và là cơ sở để đối chiếu và sử dụng trong mọi trường hợp, nhất là khi có sự khác biệt giữa văn bản đăng trên công báo và văn bản có nguồn gốc khác hoặc khi có tranh chấp về pháp lý.
BẢN GỐC CỦA TÁC PHẨM
Bản thảo cuối cùng của một tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học được dùng để đưa in nhân bản, là cơ sở để thực hiện các bản sao hay để chuyển sang hình thái thể hiện khác.
Tác phẩm tạo hình do chính nghệ sĩ làm ra, khác biệt với bản chép hay phiên bản. Theo quy ước quốc tế, bản gốc tác phẩm đồ họa phải có chữ ký của tác giả. Bản gốc rất quý, có những bản gốc được xem là tài sản quốc gia, tài sản của nhân loại.
Tác giả, chủ sở hữu của tác phẩm có thể đăng ký bảo hộ tác phẩm gốc tại cơ quan bảo hộ quyền tác giả của nhà nước.
BẢN QUY TẮC TRỌNG TÀI CỦA ỦY BAN LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ LIÊN HỢP QUỐC
Bản quy tắc về trọng tài quốc tế quy định các nguyên tắc cơ bản trong quá trình xét xử các tranh chấp trong hoạt động thương mại quốc tế.
Bản quy tắc này được Ủy ban luật thương mại quốc tế của Liên hợp quốc (UNCITRAL) thông qua ngày 28.4.1976 và được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 15.12.1976.
Bản quy tắc gồm 4 chương với 41 điều. Chương 1 - Những quy định chung, đề cập các vấn đề: phạm vi áp dụng của bản quy tắc, thông báo và cách tính thời gian nhận các giấy tờ liên quan tới hoạt động của trọng tài, thông báo trọng tài, việc đại diện và trợ giúp cho các bên tranh chấp. Chương 2 - Xác lập tòa án trọng tài, quy định các vấn đề liên quan đến trọng tài viên: số lượng trọng tài viên, việc chỉ định trọng tài viên, bãi miễn trọng tài viên, thay thế trọng tài viên. Chương 3 - Tố tụng trọng tài, nội dung đề cập đến các vấn đề về tố tụng trọng tài như địa điểm trọng tài, ngôn ngữ sử dụng trong quá trình tố tụng trọng tài, nội dung đơn yêu cầu; nội dung đơn biện minh, việc sửa đổi đơn yêu cầu và đơn biện minh, các vấn đề liên quan tới việc phản đối thẩm quyền xét xử của trọng tài, các vấn đề về chứng cứ, các biện pháp ngăn ngừa kịp thời, vấn đề chuyên gia, việc vắng mặt của các bên… Chương 4 - Quyết định của trọng tài, quy định các vấn đề như: áp dụng luật trong việc giải quyết tranh chấp, các cơ sở pháp lý để kết thúc quá trình tố tụng, hình thức và hiệu lực của quyết định trọng tài, giải thích quyết định của trọng tài, chi phí trọng tài và tiền đặt trước cho việc xét xử trọng tài...
BẢN SAO
Bản ghi chép, thể hiện một cách nguyên văn, đầy đủ, chính xác nội dung của bản chính hay bản gốc hay phần cần sao và được trình bày theo thể thức quy định.
Bản sao phải được thực hiện từ bản chính hoặc bản sao y bản chính, ghi rõ ngày, tháng, năm và phải được cá nhân, cơ quan có thẩm quyền ký chứng thực xác nhận, ví dụ như bản sao bìa hộ khẩu, bản sao giấy khai sinh,...
Thẩm quyền cấp bản sao: 1) Cơ quan, tổ chức ban hành văn bản và có lưu trữ bản chính có thẩm quyền cấp bản sao; 2) Phòng công chứng, Ủy ban nhân dân có thẩm quyền công chứng, chứng thực cấp bản sao cho cá nhân, tổ chức có bản chính trình cấp.
Bản sao có thể là: 1) Bản sao y bản chính với nội dung y bản chính được thực hiện từ bản chính; 2) Bản trích sao là bản có nội dung thể hiện một phần nội dung của văn bản chính, được thực hiện từ bản chính; 3) Bản sao lục là bản sao đầy đủ, chính xác nội dung văn bản nhưng được thực hiện từ bản sao y bản chính.
BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN
Hình thức bán công khai một tài sản, một khối tài sản; theo đó có nhiều người muốn mua tham gia trả giá, người trả giá cao nhất nhưng không thấp hơn giá khởi điểm là người mua được tài sản.
Theo quy định của pháp luật, người bán đấu giá là: doanh nghiệp bán đấu giá tài sản; trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản; hội đồng bán đấu giá tài sản.
Người bán đấu giá có nghĩa vụ: tổ chức việc bán đấu giá tài sản theo nguyên tắc và thủ tục quy định của pháp luật; niêm yết, thông báo công khai, đầy đủ, chính xác các thông tin cần thiết có liên quan đến tài sản bán đấu giá; bảo quản tài sản bán đấu giá khi được người có tài sản giao bảo quản hoặc quản lý;trưng bày, cho xem và cho tham khảo hồ sơ tài sản bán đấu giá; giao tài sản bán đấu giá được giao bảo quản hoặc quản lý cho người mua được tài sản bán đấu giá yêu cầu người có tài sản bán đấu giá giao tài sản cho người mua được tài sản bán đấu giá trong trường hợp người có tài sản bán đấu giá đang trực tiếp quản lý tài sản đó; cung cấp đầy đủ các giấy tờ liên quan đến tài sản bán đấu giá cho người mua được tài sản bán đấu giá; thanh toán cho người có tài sản bán đấu giá số tiền bán tài sản sau khi trừ các chi phí bán đấu giá theo quy định của pháp luật; thực hiện chế độ kế toán, tài chính theo quy định của pháp luật; bồi thường thiệt hại trong trường hợp có lỗi do vi phạm nghĩa vụ; định kỳ hàng năm, trung tâm và doanh nghiệp bán đấu giá tài sản báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương nơi trung tâm, doanh nghiệp đặt trụ sở chính và Bộ Tư pháp về tổ chức và hoạt động của mình.
Người bán đấu giá tài sản có quyền: yêu cầu người có tài sản bán đấu giá cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin, giấy tờ liên quan đến tài sản bán đấu giá; yêu cầu người mua được tài sản bán đấu giá thực hiện việc thanh toán tiền mua tài sản bán đấu giá; yêu cầu người có tài sản bán đấu giá thực hiện việc thanh toán chi phí bán đấu giá tài sản theo quy định của pháp luật.
Mua tài sản bằng hình thức bán đấu giá tài sản là một căn cứ xác lập quyền sở hữu tài sản đối với người đã mua được tài sản.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, đấu giá tài sản được quy định tại Luật đấu giá tài sản do Quốc hội khóa 14 ban hành ngày 17 tháng 11 năm 2016.
BÁN LẺ
Hình thức bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng nhằm thỏa mãn nhu cầu cá nhân của họ.
Với việc bán lẻ, hàng hóa kết thúc quá trình lưu thông và đi vào lĩnh vực tiêu dùng cá nhân; giá trị hàng hóa được thực hiện đầy đủ. Thông thường bán lẻ được tiến hành trong mạng lưới thương nghiệp bán lẻ (các cửa hàng, cửa hiệu, quầy hàng, quán hàng, nhà ăn, xe lưu động...). Trong lĩnh vực bán lẻ, mỗi lần chỉ bán một số lượng nhỏ nhưng cũng có trường hợp bán lẻ những lô hàng lớn, chẳng hạn bán hàng cho những đơn vị tiêu dùng tập thể (trường học, trại điều dưỡng). Doanh số bán lẻ là tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ xã hội.
Hành vi bán hàng hóa hoặc dịch vụ ở mức giá quá thấp so với giá thông thường nhằm giành thị phần, loại bỏ đối thủ cạnh tranh trên thị trường.
Bản chất của việc bán phá giá nằm ở chỗ đối thủ cạnh tranh có tiềm lực mạnh chấp nhận bán hàng ở mức lỗ nào đó trong hiện tại để sớm tiêu diệt đối thủ cạnh tranh. Sau khi đã tiêu diệt được đối thủ cạnh tranh, loại bỏ được những áp lực cạnh tranh chủ yếu trên thị trường, doanh nghiệp bán phá giá sẽ nâng giá bán hàng hóa, bóc lột người tiêu dùng nhằm thu lợi nhuận bù đắp vào khoản thua lỗ trước đó và hưởng lợi nhuận siêu ngạch. Nói chung, dưới giác độ pháp luật cạnh tranh, hành vi bán phá giá bị coi là bất hợp pháp.
Trong quan hệ thương mại quốc tế, bán phá giá được hiểu là hành vi của doanh nghiệp thuộc quốc gia này bán hàng sang quốc gia khác với giá quá thấp nhằm giành giật thị trường xuất khẩu. Do hàng nhập khẩu được bán với mức giá quá thấp (tức là thấp hơn giá thông thường của hàng hóa) nên người chịu thiệt hại đầu tiên chính là những nhà sản xuất trong nước. Theo họ, việc bán phá giá là hành vi cạnh tranh không công bằng và cần phải được ngăn chặn. Từ giác độ của người tiêu dùng, hành vi bán phá giá sẽ mang lại lợi ích trước mắt. Tuy nhiên, rất có thể trong tương lai khi cạnh tranh bị triệt tiêu, người tiêu dùng sẽ bị chính doanh nghiệp bán phá giá bóc lột bằng cách định giá quá cao trong điều kiện không còn cạnh tranh hoặc tuy còn cạnh tranh nhưng không đáng kể. Chính vì vậy, nói chung, các quốc gia thường coi hành vi bán phá giá trong quan hệ thương mại quốc tế là không chấp nhận được và cần phải có biện pháp đối phó.
Đáp ứng nguyện vọng này, Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch (GATT, Điều 6) và Hiệp định chống bán phá giá (Anti-dumping Agreement) của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) cho phép các quốc gia thành viên được quyền đưa ra những biện pháp thích hợp nhằm “bảo vệ” ngành sản xuất trong nước khi mà ngành này bị thiệt hại thực sự từ hành vi bán phá giá từ phía đối tác nước ngoài. Từ “bảo vệ” đến "bảo hộ” đôi khi không có ranh giới rõ ràng. Chính vì thế, trong nhiều trường hợp quốc gia có thể bảo hộ ngành sản xuất trong nước của mình dưới danh nghĩa “bảo vệ ngành sản xuất trong nước”.
Tại Việt Nam, đáp ứng nhu cầu bảo vệ các ngành sản xuất trong nước trong quan hệ thương mại quốc tế, ngày 29.4.2004, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam (Pháp lệnh số 20/2004/PL- UBTVQH11) có hiệu lực từ ngày 01.10.2004 quy định các biện pháp cụ thể mà Chính phủ Việt Nam có thể áp dụng khi có hành vi bán phá giá từ phía đối tác nước ngoài vào thị trường Việt Nam. Pháp lệnh này căn bản tuân thủ các quy định tại Điều 6 Hiệp định GATT và Hiệp định chống bán phá giá của WTO.
Theo Pháp lệnh này, hàng hóa có xuất xứ từ nước ngoài bị coi là bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam nếu hàng hóa đó được bán với giá thấp hơn giá thông thường - giá có thể so sánh được của hàng hóa tương tự đang được bán trên thị trường nội địa của nước (hoặc vùng lãnh thổ) xuất khẩu trong điều kiện thương mại thông thường. Trong trường hợp không có hàng hóa tương tự được bán trên thị trường nội địa của nước (hoặc vùng lãnh thổ) xuất khẩu hoặc có hàng hóa tương tự được bán trên thị trường nội địa của nước hoặc vùng lãnh thổ xuất khẩu nhưng với khối lượng, số lượng hoặc trị giá hàng hóa không đáng kể thì giá thông thường của hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam được xác định theo một trong hai cách sau: 1) Giá có thể so sánh được của hàng hóa tương tự của nước (hoặc vùng lãnh thổ) xuất khẩu đang được bán trên thị trường một nước thứ ba trong điều kiện thương mại thông thường; 2) Giá thành hợp lý của hàng hóa cộng thêm các chi phí hợp lý khác và lợi nhuận ở mức hợp lý, xét theo từng công đoạn từ sản xuất đến lưu thông trên thị trường của nước hoặc vùng lãnh thổ xuất khẩu hoặc nước thứ ba.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, biện pháp chống bán phá giá được quy định tại Mục 2 Chương IV Luật quản lý ngoại thương năm 2017 do Quốc hội khóa 14 ban hành ngày 12 tháng 06 năm 2017.
BẢNG GIÁ ĐẤT
Bảng tập hợp các mức giá đất cho mỗi loại đất do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương công bố hàng năm vào ngày 1.1 trên cơ sở quy định của Chính phủ về phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất.
Bảng giá đất được ban hành phù hợp với nguyên tắc đảm bảo sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường, được phép điều chỉnh với biên độ tăng hoặc giảm 20% so với giá đất do Chính phủ quy định, là cơ sở để xác định nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất và mức giá bồi thường thiệt hại khi nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng.
Cơ sở pháp lý để bảng giá đất được xây dựng tại các tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương là Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16.11.2004 của Chính phủ về phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, cơ sở pháp lý để bảng giá đất được xây dựng tại các tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương được quy định tại Nghị định số 96/2019/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 19 tháng 12 năm 2019.
BẢNG LƯƠNG
Văn bản do Nhà nước ban hành và quy định các mức lương cụ thể cho các loại công việc, nghề nghiệp, chức vụ khác nhau, tương quan tỉ lệ tiền lương giữa các lao động trong cùng ngành nghề theo trình độ, kinh nghiệm làm việc hoặc theo công việc thực tế mà người lao động đảm nhiệm.
Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bảng lương chỉ do Nhà nước quy định, làm căn cứ trả lương cho các công nhân, viên chức nhà nước theo quy định. Hiện nay, các bảng lương do Nhà nước quy định chỉ áp dụng trong khu vực nhà nước. Chính phủ cũng tham khảo ý kiến của đại diện các bên quan hệ lao động để quy định các nguyên tắc xây dựng bảng lương trong các đơn vị sử dụng lao động thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Người sử dụng lao động được tự xây dựng bảng lương để áp dụng trong đơn vị mình trên cơ sở các nguyên tắc do Nhà nước quy định và phải tham khảo ý kiến ban chấp hành công đoàn cơ sở. Khi xây dựng bảng lương, người sử dụng lao động phải tham khảo ý kiến của tổ chức công đoàn cơ sở, phải đăng ký tại cơ quan quản lý nhà nước về lao động cấp tỉnh, nơi đặt trụ sở chính của người sử dụng lao động và công bố công khai trong doanh nghiệp.
Cấu tạo bảng lương gồm ngạch lương, bậc lương và hệ số lương.
BÀO CHỮA
Việc dùng lý lẽ, chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can, bị cáo.
Bào chữa là quyền hiến định của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự. Quyền này được ghi nhận ngay trong Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - Hiến pháp năm 1946, tại Điều 67 Hiến pháp quy định: "Người bị cáo được tự bào chữa hoặc nhờ luật sư". Trước đó, tại Điều 5 sắc lệnh ngày 13.9.1945 thiết lập các tòa án quân sự quy định: "bị cáo có thể tự bào chữa hay nhờ một người khác bênh vực cho". Quy định này được thực hiện suốt từ đó cho đến khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988. Trên cơ sở kế thừa các văn bản pháp luật cũ, Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 mở rộng quyền bào chữa cho cả bị can chứ không dừng lại đối với bị cáo (Điều 12). Đến Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 tiếp tục quy định quyền bào chữa tại Điều 11, theo đó bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Tự bào chữa là hình thức bị can, bị cáo tự sử dụng các quyền mà pháp luật cho phép để chứng minh sự vô tội, giảm nhẹ tội hoặc bảo vệ những lợi ích hợp pháp của mình. Nhờ người khác bào chữa là hình thức bị can, bị cáo nhờ người khác bào chữa, bảo vệ cho họ. Khi nhận bào chữa, người bào chữa được sử dụng các biện pháp do luật quy định để bào chữa cho bị can, bị cáo và giúp đỡ các bị can, bị cáo về mặt pháp lý.
Hai hình thức này có thể cùng được sử dụng để bào chữa cho bị can, bị cáo trong vụ án. Việc quy định quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sự Việt Nam thể hiện sự dân chủ trong hoạt động tố tụng, góp phần bảo đảm cho điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của bị can, bị cáo.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, việc bào chữa được quy định tại Điều 60, Điều 61 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015.
BẢO ĐẢM ĐẦU TƯ
Những cam kết của Nhà nước đối với các nhà đầu tư nhằm tạo sự an toàn về mặt pháp lý đối với tài sản, vốn đầu tư, thu nhập, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của nhà đầu tư khi họ tiến hành hoạt động đầu tư tại Việt Nam. Các biện pháp bảo đảm đầu tư bao gồm:
1. Bảo đảm quyền sở hữu đối với tài sản và vốn đầu tư Nhà nước không quốc hữu hóa, không tịch thu bằng biện pháp hành chính vốn và tài sản hợp pháp của nhà đầu tư. Trong trường hợp cấp thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và vì lợi ích quốc gia, Nhà nước quyết định trưng mua hoặc trưng dụng tài sản của nhà đầu tư thì nhà đầu tư được bồi thường theo thời giá thị trường và nhà đầu tư được tạo điều kiện thuận lợi để đầu tư vào lĩnh vực, địa bàn thích hợp;
2. Bảo đảm giải quyết thỏa đáng quyền lợi của nhà đầu tư trong trường hợp do thay đổi quy định của pháp luật Việt Nam làm thiệt hại đến lợi ích của họ;
3. Bảo đảm quyền tự do sử dụng lợi nhuận thu được từ các hoạt động đầu tư sau khi hoàn tất các nghĩa vụ theo quy định của pháp luật; bảo đảm cho các nhà đầu tư nước ngoài được chuyển ra nước ngoài lợi nhuận, vốn đầu tư và các khoản thanh toán khác;
4. Bảo đảm giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hoạt động đầu tư.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, bảo đảm đầu tư được quy định tại Chương II Luật Đầu tư năm 2014 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 26 tháng 11 năm 2014.
BẢO ĐẢM THI HÀNH ÁN
Biện pháp do pháp luật quy định mà Tòa án có thể quyết định áp dụng để bảo đảm cho bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành.
Trong tố tụng hình sự, Tòa án có thể áp dụng biện pháp bắt giam bị cáo hoặc biện pháp ngăn chặn thích hợp khác để bảo đảm thi hành án. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, đối với bị cáo đang bị tạm giam mà bị phạt tù nhưng đến ngày kết thúc phiên tòa sơ thẩm, thời hạn tạm giam đã hết thì Hội đồng xét xử sơ thẩm ra quyết định tạm giam bị cáo để bảo đảm việc thi hành án, trừ trường hợp bị cáo bị xử phạt tù nhưng được hưởng án treo hoặc thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời gian bị cáo đã bị tạm giam. Trong trường hợp bị cáo không bị tạm giam nhưng bị phạt tù thì họ chỉ bị bắt tạm giam để chấp hành hình phạt khi bản án đã có hiệu lực pháp luật. Hội đồng xét xử sơ thẩm có thể ra quyết định bắt tạm giam ngay bị cáo nếu có căn cứ cho thấy bị cáo có thể trốn hoặc tiếp tục phạm tội.
Trong tố tụng dân sự, kinh tế, lao động, hành chính, Tòa án có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của Viện kiểm sát, của đương sự áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo đảm việc thi hành án. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể là: cấm hoặc buộc đương sự, tổ chức, cá nhân khác thực hiện một số hành vi nhất định; cho thu hoạch và bảo quản sản vật có liên quan đến tranh chấp; kê biên tài sản đang tranh chấp, phong tỏa tài khoản; cấm chuyển dịch tài sản đang tranh chấp; tạm đình chỉ việc thi hành quyết định sa thải người lao động hoặc quyết định hành chính bị khiếu kiện;...
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, bảo đảm thi hành án trong tố tụng hình sự được quy định tại khoản 1 và khoản 4 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015.
BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ DÂN SỰ
Biện pháp dân sự có tính chất tài sản do các bên tự nguyện cam kết, thỏa thuận hoặc pháp luật quy định khi xác lập giao dịch dân sự. Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ nhằm buộc người có nghĩa vụ phải thực hiện đúng nghĩa vụ mà họ đã cam kết, thỏa thuận trong giao dịch dân sự.
Trong trường hợp người có nghĩa vụ không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ mà họ đã cam kết, thì người có quyền có thể áp dụng biện pháp bảo đảm nghĩa vụ do các bên thỏa thuận hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền can thiệp để buộc bên có nghĩa vụ phải thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết nhằm bảo đảm quyền lợi cho mình.
Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đều mang tính chất dự phòng và luôn tồn tại kèm theo một nghĩa vụ chính nên chỉ được áp dụng khi bên có nghĩa vụ đã không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ chính mà họ đã tự nguyện cam kết. Tùy từng trường hợp và tùy thuộc vào việc cam kết, thỏa thuận, các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự có những quy chế xử lý khác nhau. Bộ luật dân sự quy định các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự sau đây: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh, phạt vi phạm. Mỗi biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự có đặc trưng và bản chất pháp lý khác nhau.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự được quy định tại Mục 3 Chương XV Bộ luật dân sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 24 tháng 11 năm 2015.
GÓC NHÌN PHÁP LÝ
INFOGRAPHIC & VIDEO MỚI
VĂN BẢN MỚI BAN HÀNH
- Số hiệu: 642/QĐ-BYT - Ngày ban hành: 16/03/2024
- Số hiệu: 142/QĐ-VPCP - Ngày ban hành: 16/03/2024
- Số hiệu: 179/QĐ-BNV - Ngày ban hành: 15/03/2024
- Số hiệu: 05/2024/QĐ-UBND - Ngày ban hành: 15/03/2024
- Số hiệu: 872/KH-UBND - Ngày ban hành: 15/03/2024