Thuật ngữ pháp lý
Đang xem kết quả 21 đến 40 trong tổng số 9.960 thuật ngữ
ÁP GIẢI
Biện pháp cưỡng chế được áp dụng với những bị can, bị cáo tại ngoại đã nhận được giấy triệu tập của cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án nhưng vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng hoặc với người bị kết án phạt tù đang tại ngoại đã quá thời hạn phải có mặt tại cơ quan công an để chấp hành án mà vẫn không có mặt.
Trước khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 được ban hành, việc cưỡng chế bị cáo tại ngoại đến phiên tòa được gọi là “dẫn giải”. Thuật ngữ “áp giải" được sử dụng tại Khoản 1 Điều 162 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 và tiếp tục được sử dụng tại Điều 187 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, theo đó, việc áp giải phải có quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Quyết định này được đọc cho bị can, bị cáo hoặc người bị kết án nghe trước khi áp giải.
Người áp giải phải đi kèm để giải bị can, bị cáo hoặc người bị kết án về địa điểm ghi trong giấy triệu tập hoặc quyết định thi hành án.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, áp giải được quy định tại điểm k khoản 1 Điều 4 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 25 tháng 11 năm 2015: “Áp giải là việc cơ quan có thẩm quyền cưỡng chế người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo đến địa điểm tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử.”.
ÂN GIẢM
Thẩm quyền của Chủ tịch nước) giảm hình phạt tử hình theo bản án đã có hiệu lực pháp luật xuống tù chung thân theo quy định của pháp luật, thể hiện chính sách nhân đạo của nhà nước ta đối với những người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, mở ra cho những người này khả năng ăn năn hối cải, cải tạo, giáo dục trở thành người có ích cho xã hội.
Theo quy định của pháp luật (Điều 258 Bộ luật hình sự năm 2003) trong thời hạn bảy ngày kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, người bị kết án tử hình được gửi đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước. Bản án tử hình chỉ được thi hành sau khi Chủ tịch nước có quyết định bác đơn xin ân giảm.
Trong trường hợp người bị kết án tử hình được ân giảm, thì hình phạt tử hình được chuyển thành tù chung thân (Điều 35 Bộ luật hình sự năm 1999).
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, ân giảm được quy định tại điểm d và e khoản 1 Điều 367 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 25 tháng 11 năm 2015. Người bị kết án tử hình được ân giảm được quy định tại khoản 4 Điều 40 và khoản 6 Điều 63 Bộ luật hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành 27 tháng 11 năm 2015.
ÂN XÁ
Đặc ân của nhà nước trong việc miễn giảm trách nhiệm hình sự hoặc hình phạt đối với người phạm tội, thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước ta đối với những người phạm tội, mở ra cho những người phạm tội khả năng ăn năn hối cải, cải tạo, giáo dục trở thành người có ích cho xã hội và nhanh chóng tái hòa nhập cộng đồng. Ân xá được thực hiện với hai hình thức là đại xá và đặc xá.
1. Đại xá thuộc thẩm quyền của Quốc hội được Hiến pháp quy định (Khoản 11 Điều 70 Hiến pháp 2013), là hình thức miễn giảm trách nhiệm hình sự hoặc hình phạt cho một nhóm người cụ thể không xác định đã thực hiện tội phạm nhất định. Đại xá có thể được quyết định đối với nhóm người phạm tội hoặc đối với tội phạm hoặc kết hợp cả hai đối tượng. Thông thường quyết định đại xá được công bố nhân các dịp có sự kiện đặc biệt trọng đại của đất nước như sau khi cách mạng thành công, sau khi kháng chiến thắng lợi... Bằng việc công bố quyết định đại xá, vụ án không được khởi tố (Khoản 6 Điều 157 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015), người phạm tội trong phạm vi được đại xá chưa bị kết án có thể được miễn trách nhiệm hình sự; người đã bị kết án có thể được miễn hình phạt; người đang chấp hành hình phạt có thể được đình chỉ chấp hành hình phạt; người đã chấp hành hình phạt có thể được xóa án tích.
2. Đặc xá thuộc thẩm quyền của Chủ tịch nước được Hiến pháp quy định (Điều 103), là hình thức miễn giảm trách nhiệm hình sự hoặc hình phạt cho từng người cụ thể đã thực hiện tội phạm. Thông thường quyết định đặc xá được công bố nhân các dịp có sự kiện trọng đại của đất nước như ngày Quốc khánh. Tết nguyên đán... Bằng việc công bố quyết định đặc xá, người phạm tội trong phạm vi được đặc xá chưa bị kết án có thể được miễn trách nhiệm hình sự; người đã bị kết án có thể được miễn hình phạt; người đang chấp hành hình phạt có thể được đình chỉ chấp hành hình phạt; người đã chấp hành hình phạt có thể được xóa án tích... Trong những năm gần đây, thông thường Chủ tịch nước ra quyết định đặc xá đối với người phạm tội bị kết án phạt tù. Để thực hiện thẩm quyền của mình, Chủ tịch nước thành lập Hội đồng đặc xá để tư vấn cho việc ra các quyết định đặc xá cụ thể. Các Hội đồng đặc xá địa phương và trung ương thực hiện nhiệm vụ theo thủ tục quy định. Trên cơ sở danh sách những người đủ điều kiện được Hội đồng đặc xá Trung ương trình lên, Chủ tịch nước xem xét và ra quyết định đặc xá đối với từng trường hợp cụ thể.
BÁC YÊU CẦU CỦA ĐƯƠNG SỰ
Tòa án không chấp nhận yêu cầu của đương sự.
Tòa án bác yêu cầu của đương sự khi yêu cầu của đương sự không có cơ sở. Đương sự có quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của minh là có căn cứ và hợp pháp. Trong trường hợp đương sự đưa ra yêu cầu không đúng, thiếu cơ sở pháp lý hoặc không có đủ chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của họ thì Tòa án có thể bác yêu cầu của đương sự. Ví dụ: Tòa án bác yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại của nguyên đơn vì không có chứng cứ xác định được bị đơn là người gây thiệt hại.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, quyền yêu cầu của đương sự được quy định tại khoản 1 Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 25 tháng 11 năm 2015.
BÃI BỎ ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ
Tuyên bố không còn hiệu lực hoặc không còn giá trị pháp lý của một điều ước quốc tế.
Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005 không sử dụng thuật ngữ bãi bỏ mà sử dụng thuật ngữ "Chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế" nhằm chỉ rõ hành vi pháp lý do Quốc hội, Chủ tịch nước hoặc Chính phủ thực hiện để từ bỏ hiệu lực của điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên (Xt. Rút khỏi điều ước quốc tế). Điều 85 của Luật này quy định:
Việc chấm dứt hiệu lực toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế được thực hiện theo quy định của điều ước quốc tế đó hoặc theo thỏa thuận giữa bên Việt Nam và bên ký kết nước ngoài.
Điều ước quốc tế bị chấm dứt hiệu lực trong những trường hợp sau đây: theo quy định của điều ước quốc tế hoặc theo thỏa thuận của toàn bộ thành viên điều ước quốc tế đó; có điều ước quốc tế được ký kết sau quy định về cùng một nội dung với điều ước quốc tế đó; do hậu quả của việc vi phạm điều ước quốc tế đó; do đối tượng điều chỉnh của điều ước quốc tế đó không còn tồn tại hoặc bị hủy bỏ; do sự thay đổi cơ bản hoàn cảnh khi ký kết hoặc gia nhập điều ước quốc tế làm ảnh hưởng đến việc thực hiện điều ước quốc tế đó; do cắt quan hệ ngoại giao hoặc quan hệ lãnh sự, do xung đột với một quy phạm bắt buộc mới được hình thành của pháp luật quốc tế.
Điều 93 của Luật quy định thẩm quyền, nội dung quyết định chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế, theo đó:
Quốc hội quyết định chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế mà Quốc hội quyết định phê chuẩn hoặc gia nhập; Chủ tịch nước quyết định chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế mà Chủ tịch nước quyết định ký, phê chuẩn hoặc gia nhập; Chính phủ quyết định chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế mà Chính phủ quyết định phê duyệt, gia nhập, ký điều ước quốc tế không phải phê chuẩn. Quyết định chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế được thể hiện bằng văn bản với những nội dung sau đây: tên điều ước quốc tế bị chấm dứt hiệu lực, thời gian, địa điểm ký và thời hạn có hiệu lực của điều ước quốc tế; trách nhiệm của cơ quan đề xuất, Bộ Ngoại giao và các cơ quan, tổ chức hữu quan.
Luật này cũng quy định về trình tự, thủ tục trình, quyết định chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế; hồ sơ trình việc chấm dứt hiệu lực và thông báo về việc chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, bãi bỏ điều ước quốc tế được quy định tại khoản 16 Điều 2 Luật điều ước quốc tế năm 2016 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 09 tháng 04 năm 2016: “Chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế là hành vi pháp lý do Quốc hội, Chủ tịch nước hoặc Chính phủ thực hiện để từ bỏ hiệu lực của điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.”.
BÃI BỎ VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
Việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền tuyên bố một văn bản quy phạm pháp luật hiện hành hết hiệu lực thi hành.
Các văn bản quy phạm pháp luật có thể bị bãi bỏ trong những trường hợp sau: 1) Cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã ban hành một văn bản quy phạm pháp luật có quyền bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật đó; 2) Cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp trên bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp dưới.
Theo quy định tại Khoản 9 Điều 84 Hiến pháp năm 1992 thì Quốc hội có thẩm quyền bãi bỏ văn bản, trong đó có văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; Thủ tướng Chính phủ bãi bỏ những quyết định, chỉ thị, thông tư của bộ trưởng; Hội đồng nhân dân có quyền bãi bỏ quyết định sai trái của Ủy ban nhân dân cùng cấp, những nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp dưới.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, Quốc hội có thẩm quyền bãi bỏ các văn bản quy phạm pháp luật được quy định tại khoản 10 Điều 70 Hiến pháp năm 2013 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 28 tháng 11 năm 2013. Ủy ban thường vụ Quốc hội có thẩm quyền bãi bỏ các văn bản quy phạm pháp luật được quy định tại khoản 7 Điều 74 Hiến pháp năm 2013 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 28 tháng 11 năm 2013. Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền bãi bỏ các văn bản quy phạm pháp luật được quy định tại khoản 4 Điều 98 Hiến pháp năm 2013 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 28 tháng 11 năm 2013.
BÃI CÔNG
Từ chối tiếp tục làm việc một cách có tổ chức của tập thể người lao động trong doanh nghiệp do có tranh chấp với người sử dụng lao động về điều kiện lao động, tiền lương, việc làm và các lợi ích khác.
Trong pháp luật lao động nước ta, thuật ngữ bãi công được dùng lần đầu tiên tại sắc lệnh số 29-SL ngày 12.3.1947. Pháp luật lao động hiện hành không dùng thuật ngữ “bãi công” (Xt. Đình công).
BÃI THỊ
Việc những người buôn bán ở chợ hoặc chủ các cửa hàng, cửa hiệu rủ nhau đồng loạt ngưng, thôi không mở cửa hàng hoặc cửa hiệu bán hàng, làm đình trệ việc giao lưu, mua bán, tạo nên tình hình bất ổn, không bình thường làm xôn xao dư luận, tâm lý người dân trong phạm vi một địa phương.
Bãi thị có khi chỉ đối với một số mặt hàng tạo nên sự khan hiếm cá biệt nhưng thường là đồng loạt trên quy mô cả một chợ hoặc cả một dãy phố. Bãi thị luôn có tính tập thể và có sự tổ chức, theo một phương án nhất định có được sự đồng thuận và tích cực tham gia của số đông và của cả nhân dân.
Bãi thị theo đuổi những mục đích khác nhau, có khi chỉ là sự phản ứng tập thể để tỏ thái độ trước một tình hình bức xúc của công việc làm ăn như việc bố trí, sắp xếp các quầy hàng hoàn toàn bất hợp lý mà không chịu điều chỉnh hoặc người quản lý chợ có cách xử lý, xử sự không đúng kéo dài đối với số đông các quầy hàng. Bãi thị cũng thường xảy ra để phản đối thuế khóa nặng nề đánh vào người buôn bán, tức là nặng về yêu sách kinh tế nhưng trong nhiều trường hợp có nội dung chính trị như những người buôn bán ở chợ Đông Ba (Huế) đã nhiều lần tổ chức bãi thị phản đối chính quyền ngụy hoặc trong phong trào chống lại việc chính quyền thực dân Pháp xử án tử hình nhà cách mạng Phan Bội Châu năm 1925 của nhân dân cả nước, sôi động diễu hành, bãi thị, bãi khóa...
BAN
Tên gọi cơ quan thực hiện chức năng quản lý hoặc chức năng tham mưu trong hệ thống tổ chức bộ máy của Nhà nước, Đảng và các đoàn thể nhân dân.
Ban có thể là: 1) Cơ quan ngang bộ thực hiện chức năng quản lý một ngành hoặc lĩnh vực trong phạm vi cả nước như Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ, nay là Bộ Nội vụ; 2) Cơ quan thuộc Chính phủ do Thủ tướng trực tiếp thành lập, chỉ đạo như Ban phòng chống lụt bão trung ương...; 3) Cơ quan tham mưu của Ban Chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về từng lĩnh vực được phân công như Ban Kinh tế trung ương, Ban Khoa giáo trung ương...
Ở một số ngành, ở các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể ở địa phương thường cũng có các ban làm nhiệm vụ nghiên cứu, giúp việc chỉ đạo tham mưu về một số lĩnh vực như Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Ban Pháp chế Hội đồng nhân dân thành phố... Ban cũng có thể là bộ phận cấu thành của đơn vị hành chính - sự nghiệp như ban quản lý ký túc xá của trường đại học...
BAN CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
Cơ quan chuyên môn của Hội đồng nhân dân.
Các ban của Hội đồng nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra trong số các đại biểu của mình tại kỳ họp đầu tiên của mỗi khóa Hội đồng nhân dân. Các ban của Hội đồng nhân dân là hình thức tham gia tập thể của các đại biểu Hội đồng nhân dân vào việc thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng nhân dân, giúp Hội đồng nhân dân nghiên cứu, thẩm tra, xem xét những vấn đề thuộc các lĩnh vực nhất định như kinh tế, văn hóa - xã hội, pháp chế. Các ban của Hội đồng nhân dân được thành lập ở cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Thành phần của các ban của Hội đồng nhân dân có trưởng ban, phó trưởng ban và các ủy viên. Thành viên của các ban của Hội đồng nhân dân không thể đồng thời là thành viên của Ủy ban nhân dân cùng cấp để bảo đảm cho hoạt động giám sát được khách quan, số lượng thành viên của mỗi ban do Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định, ở Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có ba ban được thành lập: ban kinh tế và ngân sách, ban văn hóa - xã hội và ban pháp chế. Trưởng ban của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện không thể đồng thời là thủ trưởng các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân, viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, chánh án Tòa án nhân dân cùng cấp.
Các ban của Hội đồng nhân dân có các nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: 1) Tham gia chuẩn bị các kỳ họp của Hội đồng nhân dân; 2) Thẩm tra các báo cáo, đề án do Hội đồng nhân dân hoặc Thường trực Hội đồng nhân dân phân công; 3) Giúp Hội đồng nhân dân giám sát hoạt động của Ủy ban nhân dân và các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân; hoạt động của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; 4) Giúp Hội đồng nhân dân giám sát các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân trong việc thi hành hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và các nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp; 5) Báo cáo kết quả hoạt động giám sát với Thường trực Hội đồng nhân dân khi cần thiết.
Trong khi thi hành nhiệm vụ, các ban của Hội đồng nhân dân có quyền yêu cầu Ủy ban nhân dân, các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội ở địa phương cung cấp những thông tin, tài liệu cần thiết liên quan đến hoạt động của giám sát. Các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm đáp ứng yêu cầu của các ban của Hội đồng nhân dân.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, Ban của Hội đồng nhân dân được quy định tại khoản 4 Điều 6 Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 19 tháng 06 năm 2015: “Ban của Hội đồng nhân dân là cơ quan của Hội đồng nhân dân, có nhiệm vụ thẩm tra dự thảo nghị quyết, báo cáo, đề án trước khi trình Hội đồng nhân dân, giám sát, kiến nghị về những vấn đề thuộc lĩnh vực Ban phụ trách; chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân.”.
BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
Hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các tổ chức xã hội khi được nhà nước trao quyền thực hiện theo trình tự đã được quy định chặt chẽ thể hiện các bước, từng công việc phải làm để đưa ra các văn bản quy phạm pháp luật, từ đề xuất sáng kiến lập pháp, lập chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật đến soạn thảo dự án văn bản quy phạm pháp luật, thẩm định, thẩm tra dự án văn bản quy phạm pháp luật, công bố, tổ chức lấy ý kiến đóng góp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân, những tầng lớp dân cư có liên quan đến việc tổng hợp, phân tích, nghiên cứu tiếp thu ý kiến đóng góp, đến trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, cho ý kiến hoặc thông qua dự án văn bản quy phạm pháp luật.
Thông thường mỗi loại văn bản quy phạm pháp luật lại có một quy trình riêng, tương thích, phù hợp với tính chất, vị trí, vai trò của cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành một loại văn bản quy phạm pháp luật riêng như luật khác pháp lệnh, pháp lệnh khác nghị định của Chính phủ, khác thông tư của các bộ, ngành...
Thủ tục, trình tự ban hành văn bản quy phạm pháp luật mang nặng tính kỹ thuật nhưng qua thủ tục, trình tự ban hành văn bản quy phạm pháp luật có thể thấy được trình độ phát triển, tính chất dân chủ của một chế độ nhà nước. Vì vậy, vấn đề bảo đảm trình tự ban hành văn bản quy phạm pháp luật của quốc gia là đề tài thường được quan tâm trong sinh hoạt, hoạt động lập pháp của nhà nước, của xã hội.
BAN KIỂM SOÁT CỦA CÔNG TY
Bộ phận trong cơ cấu bộ máy quản lý của công ty, do cơ quan đại diện chủ sở hữu của công ty thành lập để giúp cơ quan này kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp trong hoạt động quản lý, điều hành công ty; trong việc chấp hành pháp luật, điều lệ và các quyết định của cơ quan đó.
Theo Luật doanh nghiệp thì các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần có trên 11 thành viên phải có ban kiểm soát. Ban kiểm soát do hội đồng thành viên (đối với công ty trách nhiệm hữu hạn) hoặc đại hội đồng cổ đông (đối với công ty cổ phần) bầu ra. Số lượng thành viên, quyền, nghĩa vụ và chế độ làm việc của ban kiểm soát công ty trách nhiệm hữu hạn do điều lệ của công ty quy định.
Ban kiểm soát công ty cổ phần có từ 3 đến 5 thành viên, trong đó có ít nhất 1 thành viên có chuyên môn về kế toán. Ban kiểm soát bầu một thành viên làm trưởng ban. Trưởng ban kiểm soát phải là cổ đông của công ty cổ phần. Thành viên hội đồng quản trị, giám đốc và những người có liên quan với thành viên hội đồng quản trị, giám đốc, kế toán trưởng của công ty đó không được làm thành viên ban kiểm soát.
Ban kiểm soát có nhiệm vụ kiểm tra và báo cáo cho cơ quan đại diện chủ sở hữu công ty về tính hợp lý, hợp pháp trong hoạt động điều hành công ty; trong việc ghi chép sổ kế toán và báo cáo tài chính; kiến nghị biện pháp bổ sung, sửa đổi, cải tiến cơ cấu tổ chức quản lý, điều hành hoạt động của công ty; các nhiệm vụ khác theo quy định của điều lệ. Để thực hiện nhiệm vụ của mình, ban kiểm soát có quyền yêu cầu các cơ quan quản lý, điều hành công ty phải cung cấp đầy đủ và kịp thời các thông tin, tài liệu về hoạt động kinh doanh của công ty.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, quyền và nghĩa vụ của Ban kiểm soát được quy định tại Điều 82, Điều 83, Điều 163, Điều 165 Luật doanh nghiệp năm 2014 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 26 tháng 11 năm 2014.
BAN KIỂM SOÁT CỦA CÔNG TY NHÀ NƯỚC
Cơ quan do hội đồng quản trị thành lập để giúp hội đồng quản trị kiểm tra, giám sát tính hợp pháp, chính xác và trung thực trong quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh, trong ghi chép sổ kế toán, báo cáo tài chính và việc chấp hành điều lệ doanh nghiệp, nghị quyết, quyết định của hội đồng quản trị, quyết định của chủ tịch hội đồng quản trị.
Theo Luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003, ban kiểm soát của công ty nhà nước gồm trưởng ban là thành viên hội đồng quản trị và một số thành viên khác do hội đồng quản trị quyết định. Tổ chức công đoàn trong công ty cử một đại diện đủ điều kiện pháp luật quy định tham gia ban kiểm soát.
Thành viên ban kiểm soát phải có các điều kiện và tiêu chuẩn sau: thường trú tại Việt Nam; có sức khỏe, phẩm chất đạo đức tốt, trung thực, liêm khiết, có ý thức chấp hành pháp luật; có trình độ về nghiệp vụ kinh tế, tài chính kế toán, kiểm toán hoặc chuyên môn, nghiệp vụ; thành viên ban kiểm soát làm việc theo chế độ chuyên trách không đồng thời đảm nhiệm các chức vụ lãnh đạo trong bộ máy nhà nước; không có vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con, anh, chị, em ruột giữ chức danh thành viên hội đồng quản trị, tổng giám đốc, kế toán trưởng, thủ quỹ tại cùng công ty.
Ban kiểm soát thực hiện nhiệm vụ do hội đồng quản trị giao, báo cáo và chịu trách nhiệm trước hội đồng quản trị.
Chi phí hoạt động, kể cả tiền lương và điều kiện làm việc của ban kiểm soát do công ty bảo đảm.
Mô hình lập ban kiểm soát trong doanh nghiệp nhà nước có hội đồng quản trị đã được thực hiện kể từ khi có Luật doanh nghiệp nhà nước năm 1985. Theo đó, ban kiểm soát cũng do hội đồng quản trị thành lập để giúp hội đồng quản trị kiểm tra, giám sát hoạt động điều hành của tổng giám đốc hoặc giám đốc, bộ máy doanh nghiệp và các đơn vị thành viên (nếu có) trong hoạt động tài chính, chấp hành điều lệ doanh nghiệp, nghị quyết, quyết định của hội đồng quản trị, chấp hành pháp luật. Tuy nhiên, Luật doanh nghiệp nhà nước năm 1995 chưa quy định tiêu chuẩn và điều kiện để trở thành thành viên của ban kiểm soát.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, ban kiểm soát trong doanh nghiệp nhà nước được quy định từ Điều 102 đến Điều 107 Luật doanh nghiệp năm 2014 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 26 tháng 11 năm 2014.
BAN KIỂM SOÁT CỦA HỢP TÁC XÃ
Cơ quan kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật và chấp hành điều lệ hợp tác xã, nghị quyết của đại hội xã viên, được đại hội xã viên bầu trực tiếp theo nhiệm kỳ của ban quản trị.
Số lượng thành viên ban kiểm soát do điều lệ hợp tác xã quy định. Đối với hợp tác xã có ít xã viên có thể chỉ bầu một kiểm soát viên để thực hiện chức năng của ban kiểm soát. Thành viên ban kiểm soát phải là xã viên hợp tác xã, có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ chuyên môn và không được đồng thời là thành viên ban quản trị, kế toán trưởng, thủ quỹ của hợp tác xã và không phải là cha, mẹ, vợ, chồng, con hoặc anh, chị, em ruột của họ.
Nhiệm vụ của ban kiểm soát là kiểm tra việc chấp hành điều lệ. nội quy hợp tác xã và nghị quyết của đại hội xã viên; giám sát hoạt động của ban quản trị, chủ nhiệm hợp tác xã và các xã viên theo đúng pháp luật và điều lệ hợp tác xã; kiểm tra về tài chính, kế toán, phân phối thu nhập, xử lý các khoản lỗ, sử dụng các quỹ của hợp tác xã; tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo có liên quan đến công việc của hợp tác xã.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, ban kiểm soát của hợp tác xã được quy định từ Điều 39 đến Điều 41 Luật hợp tác xã năm 2012 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 20 tháng 11 năm 2012.
BAN QUẢN LÝ KHU CÔNG NGHIỆP
Cơ quan quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao do Thủ tướng chính phủ quyết định thành lập.
Ban quản lý khu công nghiệp có tư cách pháp nhân, có tài khoản, có con dấu hình Quốc huy, có biên chế và kinh phí hoạt động do ngân sách nhà nước cấp.
Mô hình lập ban kiểm soát trong doanh nghiệp nhà nước có hội đồng quản trị đã được thực hiện kể từ khi có Luật doanh nghiệp nhà nước năm 1995. Theo đó, ban kiểm soát cũng do hội đồng quản trị thành lập để giúp hội đồng quản trị kiểm tra, giám sát hoạt động điều hành của tổng giám đốc hoặc giám đốc, bộ máy doanh nghiệp và các đơn vị thành viên (nếu có) trong hoạt động tài chính, chấp hành điều lệ doanh nghiệp, nghị quyết, quyết định của hội đồng quản trị, chấp hành pháp luật. Tuy nhiên, Luật doanh nghiệp nhà nước năm 1995 chưa quy định tiêu chuẩn và điều kiện để trở thành thành viên của ban kiểm soát.
Ban quản lý khu công nghiệp gồm trưởng ban, một số phó trưởng ban, các ủy viên và bộ máy giúp việc. Ban quản lý khu công nghiệp có nhiệm vụ và quyền hạn: xây dựng quy hoạch phát triển khu công nghiệp, phương án hoạt động của khu công nghiệp; xây dựng điều lệ quản lý khu công nghiệp trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; tiếp nhận hồ sơ xin đầu tư, tổ chức thẩm định và cấp giấy phép đầu tư theo ủy quyền; kiểm tra, thanh tra việc thực hiện các quy định trong giấy phép đầu tư, các quy định của pháp luật về lao động tiền lương, bảo vệ môi trường; quản lý các hoạt động dịch vụ trong khu công nghiệp...
Để thực hiện quản lý nhà nước đối với khu công nghiệp, Chính phủ thành lập ban quản lý các khu công nghiệp Việt Nam và các ban quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh hoặc tương đương, cá biệt, có thể thành lập ban quản lý một khu công nghiệp.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ban quản lý khu công nghiệp được quy định từ Điều 61 đến Điều 63 Nghị định số 82/2018/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 22 tháng 05 năm 2018.
BAN QUẢN TRỊ HỢP TÁC XÃ
Cơ quan do đại hội xã viên trực tiếp bầu ra có chức năng quản lý hoặc vừa quản lý, vừa điều hành hoạt động của hợp tác xã.
Luật hợp tác xã năm 1996 quy định ban quản trị là cơ quan quản lý và điều hành mọi công việc của hợp tác xã. Với hợp tác xã dưới 15 xã viên có thể chỉ bầu chủ nhiệm hợp tác xã để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của ban quản trị. Theo Luật hợp tác xã năm 2003 thì hợp tác xã có thể thành lập một bộ máy vừa quản lý vừa điều hành hoặc thành lập riêng bộ máy quản lý và bộ máy điều hành để tách bạch chức năng quản lý của ban quản trị với chức năng điều hành hoạt động hàng ngày của chủ nhiệm hợp tác xã.
Ban quản trị gồm trưởng ban quản trị và các thành viên khác với số lượng do điều lệ hợp tác xã quy định. Thành viên ban quản trị phải là xã viên hợp tác xã, có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ, năng lực quản lý hợp tác xã và không được đồng thời là thành viên ban kiểm soát, kế toán trưởng, thủ quỹ của hợp tác xã và không phải là cha, mẹ, vợ, chồng, con hoặc anh, chị, em ruột của họ.
Ban quản trị họp ít nhất 1 lần mỗi tháng do trưởng ban quản trị hoặc thành viên ban quản trị được ủy quyền triệu tập và chủ trì. Ban quản trị có thể họp bất thường khi có 1/3 thành viên ban quản trị hoặc trưởng ban quản trị, trưởng ban kiểm soát, chủ nhiệm hợp tác xã yêu cầu. Các cuộc họp hợp lệ khi có ít nhất 2/3 số thành viên ban quản trị tham dự. Ban quản trị hoạt động theo nguyên tắc tập thể và quyết định theo đa số.
Ban quản trị có các nhiệm vụ và quyền hạn: bổ nhiệm, miễn nhiệm các chức danh quản lý quan trọng của hợp tác xã và kiểm tra, đánh giá công việc điều hành của họ: tổ chức thực hiện nghị quyết của đại hội xã viên; chuẩn bị báo cáo về hoạt động của hợp tác xã trình đại hội xã viên; xét kết nạp xã viên mới và giải quyết việc xã viên ra khỏi hợp tác xã, vv.
BAN THƯ KÝ LIÊN HỢP QUỐC
Cơ quan thường trực của Liên hợp quốc thực hiện chức năng hành chính, kỹ thuật của Liên hợp quốc như: chuẩn bị tài liệu, phổ biến các báo cáo, nghị quyết, bảo quản các tài liệu lưu trữ của Liên hợp quốc... Ban thư ký Liên hợp quốc do Tổng thư ký Liên hợp quốc đứng đầu.
Theo Điều 97 Hiến chương Liên hợp quốc, Ban thư ký Liên hợp quốc có một số nhân viên tùy theo nhu cầu hoạt động. Tổng thư ký Liên hợp quốc bổ nhiệm các nhân viên của Ban thư ký phù hợp với các quy tắc do Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua.
Bản quy chế nhân viên của Ban thư ký Liên hợp quốc được thông qua và có hiệu lực thi hành năm 1952 đã cụ thể hóa các quy định của Hiến chương Liên hợp quốc liên quan đến các nhân viên của Ban thư ký Liên hợp quốc như điều kiện bổ nhiệm, ưu đãi, miễn trừ, vai trò của nhân viên... Nơi làm việc của Ban thư ký là Văn phòng của Liên hợp quốc đặt tại Geneva (Thụy Sĩ) do Phó Tổng thư ký Liên hợp quốc (có chức danh là tổng giám đốc) trực tiếp lãnh đạo.
BAN THANH TRA NHÂN DÂN
Tổ chức thanh tra của quần chúng được thành lập ở xã, phường, thị trấn (gọi tắt là xã, phường) và ở các cơ quan hành chính sự nghiệp, đơn vị sản xuất kinh doanh (gọi tắt là cơ quan, đơn vị) nhằm đảm bảo quyền giám sát, kiểm tra của quần chúng đối với mọi tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nghị quyết của đại hội những người lao động và những quy định khác ở trong phạm vi xã, phường, cơ quan, đơn vị.
Ban thanh tra nhân dân ở xã, phường do quần chúng bầu ra; mặt trận tổ quốc xã, phường tổ chức, chỉ đạo hoạt động. Ban thanh tra nhân dân ở cơ quan, đơn vị do đại hội của những người lao động bầu ra; ban chấp hành công đoàn cơ sở chỉ đạo hoạt động. Ban thanh tra nhân dân được thành lập theo chế độ bầu cử dân chủ, không có cơ cấu chặt chẽ, không tạo thành hệ thống, chỉ được thành lập ở địa phương, cấp cơ sở mà không có ở cấp trung ương. Khi thực hiện nhiệm vụ, Ban thanh tra nhân dân có quyền yêu cầu cá nhân, tổ chức có liên quan ở địa phương cung cấp các tài liệu cần thiết cho việc kiểm tra, giám sát, có quyền kiến nghị với ủy ban nhân dân xã, phường hoặc thủ trưởng cơ quan, đơn vị hoặc cơ quan có thẩm quyền và giám sát việc xem xét, giải quyết kiến nghị đó. Nếu kiến nghị đó không được xem xét, giải quyết kịp thời, Ban thanh tra nhân dân được quyền kiến nghị lên thanh tra cấp huyện hoặc thanh tra nhà nước cấp trên trực tiếp của cơ quan, đơn vị.
Khi được tổ chức thanh tra nhà nước yêu cầu thì Ban thanh tra nhân dân tiến hành kiểm tra. Ban thanh tra nhân dân có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ, quyền hạn đã được pháp luật quy định. Các yêu cầu đối với thành viên của ban thanh tra nhân dân, yêu cầu đối với hoạt động của ban thanh tra và tổ chức, hoạt động của ban thanh tra đều được quy định trong các văn bản pháp luật về thanh tra nhân dân như Pháp lệnh thanh tra; Nghị định số 241/HĐBT ngày 05.08.1991 của Hội đồng Bộ trưởng quy định về tổ chức, hoạt động của các Ban thanh tra nhân dân; Thông tư của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và Thanh tra nhà nước số 01/TT-LB ngày 01.11.1991 hướng dẫn thực hiện Nghị định 241/HĐBT đối với các ban thanh tra nhân dân tại cơ quan hành chính, sự nghiệp và các đơn vị sản xuất, kinh doanh thuộc thành phần kinh tế quốc doanh. Hiện nay, tổ chức, hoạt động của Ban thanh tra nhân dân được quy định tại Luật thanh tra năm 2004 và văn bản hướng dẫn thi hành.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, việc tổ chức và hoạt động của Ban thanh tra nhân dân được quy định tại Nghị định số 159/2016/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 29 tháng 11 năm 2016.
BÀN VỀ KHẾ ƯỚC XÃ HỘI
Tên gọi vắn tắt của bản luận văn “Bàn về khế ước xã hội hay là các nguyên tắc của quyền chính trị" (Du contrat social - ou principes du droit politique).
Tác phẩm viết năm 1762 của Rousseau (Jean - Jacques Rousseau; 1712 - 1778), nhà tư tưởng cách mạng Pháp 1789, một chiến sĩ nhiệt thành đấu tranh cho các lý tưởng dân chủ tư sản tiến bộ, có ảnh hưởng hết sức sâu rộng trong quần chúng cách mạng Pháp.
Là một trong những tác phẩm xuất hiện trong thời đại khai sáng thế kỷ XVII-XVIII, được coi là tác phẩm kinh điển chứa đựng những tư tưởng tiên phong về cách mạng dân chủ, có ảnh hưởng lớn trong cách mạng Pháp năm 1789, nội dung không chỉ phê phán mạnh mẽ các thiết chế nhà nước với pháp luật phong kiến mà còn phủ định hoàn toàn chế độ phong kiến nói chung, khẳng định rằng, vì nhà nước ra đời trên cơ sở của khế ước xã hội nên các công dân có quyền hủy bỏ khế ước đó trong trường hợp có sự lạm dụng quyền lực.
Khi viết tác phẩm, tác giả theo đuổi mục đích được ghi ngay ở đầu cuốn thứ nhất: “Tôi muốn tìm xem trong trật tự dân sự có chăng một số quy tắc cai trị chính đáng, vững chắc, biết đối đãi với con người như con người; và có chăng những luật pháp đúng với ý nghĩa chân thực của nó... gắn liền cái mà luật pháp cho phép với cái mà lợi ích thúc đẩy phải làm, khiến cho công lý và lợi ích không tách rời nhau”.
Cuốn sách gồm 4 phần mà tác giả đặt tên là 4 quyển; mỗi quyển được chia thành nhiều chương và mỗi chương đều có tiêu đề, tất cả có 48 chương, khoảng 60.000 từ.
Quyển thứ nhất gồm 9 chương, trình bày những luận điểm chung về sự hình thành một xã hội loài người thoát thai từ trạng thái tự nhiên sang trạng thái công dân và những cơ sở về việc thành lập một “công ước xã hội”.
Mở đầu cho chương I quyển thứ nhất, Rousseau đưa ra một nhận xét khái quát về mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội: người ta sinh ra tự do nhưng rồi đâu đâu con người cũng sống trong xiềng xích.
Rousseau đưa ra nhận định: Khi nhân dân bị cưỡng bức mà lại biết phục tùng, họ làm thế là phải; nhưng nếu có thể hất cái ách áp bức đó thì còn hay hơn nữa; vì như thế là họ giành lại và không ai được tước đoạt tự do của họ. Và khẳng định: trật tự xã hội là một thứ quyền thiêng liêng làm nền tảng cho mọi thứ quyền khác. Nhưng trật tự xã hội không phải tự nhiên mà có, nó được xác lập trên cơ sở những công ước. Vậy phải tìm hiểu công ước đó là gì.
Rousseau làm rõ một ý cơ bản: nhân dân phải phục tùng khi họ bị cưỡng bức là vì họ phải làm theo kẻ mạnh. Đó là một việc bắt buộc phải làm, không hề là tự nguyện với họ và họ làm thế là khôn ngoan. Nhưng kẻ mạnh không phải lúc nào cũng đủ mạnh để mãi mãi làm người thống trị; muốn mãi thế hắn phải chuyển lực thành quyền và chuyển sự phục tùng thành nghĩa vụ. Lực là một sức mạnh vật lý, chẳng có chút đạo đức nào trong đó cả. Người ta chỉ bắt buộc phải phục tùng khi mà sức mạnh đã thành ra hợp pháp, chuyển thành quyền lực. Nhưng con người sinh ra đều tự do và người với người đều bình đẳng. Rousseau phê phán của Aristoteles khi nhà triết học cổ Hy Lạp này cho rằng con người vốn không bình đẳng, có kẻ sinh ra làm nô lệ, có kẻ sinh ra để trị vì. Rousseau viết: Aristoteles nói có lý, nhưng đã lấy kết quả làm nguyên nhân, sở dĩ có người nô lệ bẩm sinh là vì trước đó có những người nô lệ không bẩm sinh. Họ cũng bị cưỡng bức làm nô lệ, do tính hèn nhát mà họ thành nô lệ mãi. Rousseau phê phán những người không dám đấu tranh: “Từ bỏ tự do của mình là từ bỏ phẩm chất con người, là từ bỏ quyền làm người và cả nghĩa vụ làm người”.
Rousseau đặt vấn đề cần thiết phải có một khế ước (hay công ước xã hội) khi con người thoát ra khỏi trạng thái tự nhiên như các động vật khác để trở thành con người công dân trong xã hội. Ông xuất phát từ giả thiết, trước khi có nhà nước con người sống trong trạng thái tự nhiên, trong đó mọi người đều bình đẳng, chưa có tư hữu và bất công xã hội. Trạng thái tự nhiên có đặc điểm là tự do và bình đẳng, ở đó, chỉ có một dạng bất công là thể chất xuất phát từ sức khỏe và tuổi tác khác nhau của từng người. Bất công xã hội xuất hiện với sự xuất hiện sở hữu tư nhân đưa xã hội đến sự phân hóa giàu - nghèo; người giàu muốn giàu thêm bằng thành quả lao động của người khác. Đấu tranh giữa người và người xuất hiện: cướp bóc, chiếm đoạt, chiến tranh xâm lược, nô dịch xuất hiện, ở Rousseau có một loạt tư tưởng về mối quan hệ nhà nước, pháp luật và bất công xã hội với sự nảy sinh chế độ tư hữu, nhà nước và pháp luật là sản phẩm của chế độ tư hữu, sự áp bức, bóc lột, lộng quyền, bạo lực; giai đoạn cực đoan của bất công bắt đầu khi mọi người trở nên vô quyền như nhau trước kẻ chuyên quyền. Rousseau cố gắng “tìm kiếm hình thức liên kết bằng sức lực chung có thể bảo vệ được nhân cách và tài sản của mỗi thành viên, và trong đó mỗi người liên kết với tất cả, song chì phục tùng chính mình và được tự do như trước". Và đây chính là nội dung của khế ước xã hội. Thực chất của công ước quy vào một công thức chung: Mỗi người đặt mình và quyền lực của mình dưới sự điều khiển tối cao của ý chí chung và tất cả tiếp nhận mỗi thành viên như một bộ phận không thể tách rời của toàn thể.
Quyển thứ hai gồm 12 chương, nội dung chính là bàn về lập pháp, mà ngay ở chương I qua tiêu đề của chương, Rousseau khẳng định nguyên lý: chủ quyền tối cao là không thể từ bỏ và ở chương II - chủ quyền tối cao là không thể phân chia và chủ quyền tối cao nhằm thực hiện ý chí chung. Cơ quan quyền lực tối cao phải là một "con người" tập thể. Rousseau cũng làm rõ: ý chí chung không nhất thiết lúc nào cũng phải tuyệt đối trăm người như một nhưng điều cần thiết là mỗi tiếng nói đểu được đếm xỉa tới. Nếu gạt bỏ một tiếng nói nào thì tính chất chung sẽ bị thương tổn.
Rousseau đưa ra tư tưởng quyền lực nhân dân trực tiếp. Ý chí chung không thể chỉ là đại diện, người dân không thể bị đặt vào hoàn cảnh tự thân không thể, ngay cả khi họ muốn, mất đi quyền không thể tách rời trong việc lập pháp. Dân chủ và tự do chỉ có thể ở nơi nhân dân là người lập pháp. Rousseau đề cập đến trường hợp ý chí chung có thể bị lầm lẫn không và giảng giải: nếu có nhóm nhỏ dựa dẫm vào tập thể lớn để thi thố âm mưu, thì kết quả sẽ ít, gần với ý chí chung hơn. Cuối cùng, nếu có một nhóm to phình ra, trùm lên tất cả các nhóm khác, lúc đó sẽ không còn ý chí chung nữa.
Bàn về luật là một chương quan trọng, vì luật, theo Rousseau bao giờ cũng là tổng quát chung cho mọi người, là sự thống nhất cái tổng thể của đối tượng. Luật trị vì trong một nước cộng hòa và luật trị vì là lợi ích chung trị vì. Từ bàn về luật, tác giả đề cập tới cơ quan lập pháp. Cái trí tuệ làm ra luật phải là một trí tuệ ưu việt. Nó xây dựng một sự nghiệp cao cả lâu dài, có thể phải làm trong một thế kỷ và hưởng thụ trong thế kỷ tiếp sau và lập pháp là đỉnh cao nhất của sự hoàn thiện mà sức mạnh tập thể của một quốc gia có thể đạt tới.
Quyển thứ ba gồm 18 chương, chủ yếu bàn về các cơ quan hành pháp. Rousseau so sánh Chính phủ như một trong hai động lực của một quốc gia - động lực sức mạnh còn lực ý chí thuộc về cơ quan lập pháp. Không có ý chí thì không xảy ra hành động, nhưng không có sức mạnh thì hành động không có kết quả. Lực tổng quát của Chính phủ là lực của quốc gia. Chính phủ mạnh thể hiện ở chỗ quốc gia mạnh chứ không phải xây dựng một bộ máy cho đông người. Quan lại càng đông chính phủ càng yếu.
Theo Rousseau, có 3 loại chính phủ: chính phủ dân chủ cấu trúc bảo đảm cho người dân tham gia trực tiếp nhiều nhất cho công việc quản lý quốc gia - loại hình chính phủ lý tưởng, tiếp là chính phủ quý tộc và chính phủ quân chủ... Dấu hiệu của một chính phủ tốt là bảo đảm hòa bình và phồn vinh cho dân chúng và đó là mục đích cuối cùng của một chính phủ... Điều quan tâm lớn của Rousseau là tình trạng chính phủ lạm quyền và thoái hóa. Khi người cầm đầu chính phủ không chịu cai trị theo pháp luật, lấn át cơ quan quyền lực tối cao hoặc các thành viên trong chính phủ không tốt, mỗi người thoán đoạt quyền hành một cách riêng rẽ, dân chúng có thể cách chức hay bãi miễn họ. Làm được như vậy, các quan chức chính phủ sẽ luôn luôn cảm thấy mối đe dọa mất chức mà tận tụy, thực hiện trách nhiệm của mình trong khuôn khổ được giao. Rousseau tin rằng, việc thiết lập được một chế độ cộng hòa dân chủ thì có thể vượt qua những thoái hóa làm biến dạng một cách kỳ quặc chất của con người, sẽ hoàn toàn biến mất tình trạng người áp bức người, sẽ không còn sự bất bình đẳng quá đáng giữa người và người.
Quyển thứ tư gồm 9 chương, tiếp tục bàn nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề cơ quan tư pháp.
Một số chương của quyền này được Rousseau dành để nói thêm ý chí chung:
Ý chí chung của toàn dân khi được xác định và trở thành luật tức là mọi người liên kết lại, tự coi như một cơ thể thống nhất, thì mọi điều phán quyết của tập thể đều năng động và giản dị... còn khi mối ràng buộc bị lơi lỏng, nhà nước yếu đi, quyền lợi riêng tư nổi lên, các phe nhóm nhỏ tác động vào xã hội. Rousseau nhấn mạnh đến các hình thức bảo đảm dân chủ, trong đó ông rất đề cao vai trò của các cuộc bầu cử và xem các cuộc đại hội toàn dân La Mã cổ đại là phương thức hiệu nghiệm để thực hiện dân chủ trong một chế độ cộng hòa. Đồng thời, Rousseau đề cập một cơ chế thật hiệu lực là các cơ quan tư pháp. Đó là một cơ quan đặc biệt không tham dự vào bất cứ một bộ phận nào và nó sẽ đặt mỗi bộ phận vào đúng vị trí của nó làm mối dây liên lạc và yếu tố trung gian giữa chính phủ và nhân dân, giữa chính phủ và cơ quan quyền lực tối cao hoặc giữa cả ba bộ phận ấy khi cần thiết. Đó là cơ quan bảo tồn các luật và quyền lập pháp. Cơ quan tư pháp không được có một chút quyền lập pháp hay hành pháp nào, nhưng chính do đó mà nó có quyền cao hơn cả, vì nó bảo vệ luật mà luật là do cơ quan quyền lực tối cao ban hành và do chính phủ chấp hành... chức quan tư pháp là người nói lên lời phán xét của dân chúng... là người công bố dư luận công chúng.
GÓC NHÌN PHÁP LÝ
INFOGRAPHIC & VIDEO MỚI
VĂN BẢN MỚI BAN HÀNH
- Số hiệu: 77/2023/QĐ-UBND - Ngày ban hành: 08/12/2023
- Số hiệu: 09/CT-UBND - Ngày ban hành: 08/12/2023
- Số hiệu: 3122/QĐ-UBND - Ngày ban hành: 08/12/2023
- Số hiệu: 209/NQ-CP - Ngày ban hành: 08/12/2023